Trang này cần phải được hiệu đính.
— 72 —
- Tháng năm đi trước, chẳng phải đi ngược đàng sau.
Ngày tháng tới trước mắt, chớ nói rằng lâu mau. - Thành môn thất hỏa, ươn cập trì ngư.
Chốn thành mòn bị lửa, hại đến cá trong ao, nghĩa là bị hại lây. - Thanh xuất vu lam.
Xanh ra nơi chàm, hiểu nghĩa là học trò nhờ thầy ; mà nếu thanh quá vu lam, thì là xanh quá chàm, hiểu nghĩa là đệ tử hơn thầy. - Thấp đuốc tìm giàu, giàu chẳng thấy, cầm gươm chém khó, khó theo sau.
Muốn mà không đặng, sợ mà không khỏi thì là mạng ; cho nên người quân tử tùy ngộ nhi an. Có câu rằng : Trí giả an bần, đạt nhơn tri mạng. - Thập mục sở thị.
Mười mắt thửa xem. Chỉ nghĩa là minh bạch trước mắt nhiều người. - Thất chi đòng ngung, thâu chi tang du.
Mất chưng phía đông, thâu chưng phía tây ; mất phía nầy đặng phía khác. - Thật thà là cha dại.
Ăn ở hẳn hoi không đều quỉ quái thì là thiệt thà, đáng cho người ta yêu chuộng ; ăn nói quê mùa không biết biến thông thì là quá thiệt thà, có câu rằng : hiền giả quá ngu; cho nên gọi là cha dại. - Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín.
Một ấp mười cái nhà ắt có nhà trung tín. Nhiều người lựa ra cũng có người tốt. - Thâu đa nạp thiểu.
Ấy là nghề riêng các thôn trưởng, hễ thâu thuế thì thâu trội để mà nhập kỉ, ấy là nghĩa chẹt gánh. - Thầy có của sải có công.
Kẻ chịu của người ra công, sự thế cũng đồng. - Thê hiền phu họa thiểu, tử hiếu phụ tâm khoang.
Vợ hiền họa chồng ít, con thảo lòng cha thơ thới. - Thề mắc thắt dối.
Thề thốt không nên đều. - Thệ tề bất cập.
Cắn rún chẳng kịp. Nghĩa là ăn năn việc đã rồi. - Thi ân bất cầu báo.
Ra ơn không cầu trả. Nếu cầu trả thì là bán ơn. - Thỉ chung như nhứt.
Trước sau như một ; không chút đổi đời. - Thị khả nhẫn, thục bất khả nhẫn.
Đều ấy nỡ làm được. đều chi chẳng nỡ làm. Tàn nhẫn thới quá.