Trang:Tan Da tung van.pdf/44

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 42 —

鷄 鳴 風 雨 瀟 瀟
天 涯 遊 子,藍 橋 神 仙
好 惡 姻 緣.
Kê minh, phong vũ tiêu-tiêu;
Thiên-nha du-tử, Lam-kiều thần tiên.
Hảo, ác nhân-duyên?

Khách nghe, thần-hồn như phiêu-động, cạn chén, hỏi Vân-Anh rằng:

— Thế trước chị học chữ nho được bao năm?

Vân: — Tôi học từ năm lên sáu, đến năm mười sáu tuổi thời thôi.

— Chị học ra làm sao?

— Cũng học đấy thôi, chẳng biết nó ra làm sao cả.

— Trong lúc học, chị có tập làm văn, làm thơ gì không?

— Cũng có làm thơ cùng những câu đề vịnh lảm-nhảm.

— Các bài của chị làm ra từ khi trước, bây giờ có bài nào còn giữ lại hay còn nhớ không?

— Kể mất đi cũng nhiều, nhưng tôi cũng giữ được một ít, vẫn cuộn để ở trong hòm, những lúc nào buồn quá thời lại giở ra xem chơi một mình.

— Bây giờ chị thử lấy ra đây xem.

Vân-Anh đi mở hòm, lấy cuộn văn ra. Ông khách giở xem, thấy cũng có nhiều bài thông lắm. Xem đến bài vịnh lĩnh-mai (嶺 梅) có hai câu rằng:

含 情 不 向 東 風 笑
獨 伴 靑 松 踏 雪 遊