Trang:Thi phap nhap mon.pdf/23

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 21 —

Thơ tám câu thì phân làm tám vế là: Một câu khai, một câu thừa, một cặp trạng, một cặp luận, một câu chuyễn, một câu kết.

Con muổi.

Muổi hởi! sanh sao sướng mọi đều,
Thiếu chi chi nửa hảy còn kêu,
Lầu son các tía hằng lui tới,
Da tuyết má đào mặc ấp yêu,
Béo miệng chẳng thương con trẻ dại,
Cành hông nào tưỡng chúng dân nghèo,
Một mai dầu gặp Vương-hoài-Quấc,
Sữa tội nhà ngươi ắt chẳng nhiêu! (Thơ xưa.)


Làm thơ phải giữ theo đề, mà chẳng nên phạm đề, là trạng luận chẳng được dùng chử ra nơi đề.

Con qui. Trời sanh vật quí gọi kim qui,
Đất sãn giống linh biết lể nghi,
Nho giáo bốn thiên còn vẹn đễ,
Lạc thơ tám quẻ củng bền ghi,
Cảnh tiên mến đạo ngày ngày tới,
Cỏi Phật nghe kinh bửa bửa đi,
Mặt xấu mặc dầu lòng háo thiện,
Vóc hèn nhưng vậy dạ từ bi. (Thơ xưa)

Thơ hoặc lấy vận trắc, hoặc lấy vận bình. Hể thơ bốn câu thì ba vận; mà tám câu thì năm vận. Có khi hạng vận trước, phải làm theo.

Lò mò lo cho trò,
Bè tre che le the,
Xô cô vô ô rô,
Ôi thôi rồi nồi xôi,

Đem nem nhem thèm em,
Thằng ăn măn nhăn răng,
Không chồng trông bông lông,
Qua nhà bà gia ta.