VIỆT THI
Trời Nam hương-hỏa còn ghi nhớ,
Oanh-liệt kìa kìa dấu hiển-linh.
Ngũ-ngôn luật tám câu, bốn vần
Năm mới
Tuổi mới non sông cũ, | đối | ||
Người xưa vận hội nay, | |||
Trải bao cơn nóng rét, | |||
Đeo mãi cái râu mày. | |||
Tháng tháng mòn con mắt, | |||
Năm năm bấm đốt tay. | |||
Trẻ thơ khôn lớn mãi, | |||
Tuổi-tác vẫn còn đây. | (Bùi Ưu-thiên) |
Thất ngôn luận tám câu, bốn vần
Tự thán
Lờ-đờ mắt trắng đời không bạn, | đối | |
Lẩn-quẩn đầu xanh tuổi đã già. | ||
Sống nổi không chìm nên mến nước, | ||
Người tan muốn hợp phải lo nhà. | ||
Rạp tuồng vân-cẩu còn đông khách, | ||
Góc túi càn-khôn đủ chứa ta. | ||
Hơn kém cõi đời vinh với nhục, | ||
Nhục vinh rồi cũng hóa ra ma. | ||
(Bùi Ưu-thiên) |
Thể tuyệt-cú
Nguyên thơ cổ làm bốn câu là một giải, ghép giải nọ với giải kia thành ra thơ cổ-phong tràng-thiên; ngắt ra một giải là bài thơ tuyệt-cú, thể cổ-phong. Sau lại theo tám câu luật mà ngắt ra bốn câu làm bài thơ tuyệt-cú, thể luật. Vậy nên thơ tuyệt-cú có thứ
41