điền, sổ sách, thuế khóa, v.v. nghĩa là tùy nơi quan-trọng hay là không, mà thêm bớt quan-viên.
Ở phủ huyện, thì đặt tri-huyện, tri-phủ, để coi việc từ tụng, thuộc hạ thì có đề-lại, thông-lại, chuyên việc khám xét. Lại có huấn-đạo, lễ-sinh, chuyên việc tế-tự ở chỗ sở tại. Còn việc thu thuế thì đặt quan khác để coi về việc ấy.
Đến đời chúa Thượng Nguyễn phúc Lan 阮 福 瀾 (1635-1648) lại đặt thêm chức nội-tả 內 左, ngoại-tả 外 左, nội-hữu 內 右, ngoại-hữu 外 右, gọi là tứ trụ để giúp chúa trị dân.
Về đàng quan võ thì đặt chức: chưởng-dinh, chưởng-cơ, cai-cơ, cai-đội để coi việc binh.
2. Thi-cử. — Năm đinh-hợi (1674) chúa Nguyễn mở khoa thi gọi là thi chính-đồ 正 途 và thi hoa-văn 華 文.
Thi chính-đồ chia ra làm ba kỳ: Kỳ đệ nhất thi tứ lục, kỳ đệ nhị thi thơ phú, kỳ đệ tam thi văn sách. Quan tri phủ tri-huyện làm sơ-khảo, quan cai-bạ, ký-lục, vệ-úy làm giám-khảo. Những quyển đậu thì chia ra làm ba hạng: hạng thứ nhất gọi là giám sinh, được bổ làm tri-phủ, tri-huyện; hạng thứ nhì gọi là sính-đồ, được bổ làm huấn-đạo; hạng thứ ba cũng gọi là sính-đồ được bổ làm lễ-sinh, hoặc làm nhiêu-học.
Thi hoa-văn thì cũng phải ba ngày, mỗi ngày chỉ phải làm có một bài thơ mà thôi. Ai đậu thì được bổ vào làm việc ở Tam-ti.
Năm ất-hợi (1695) chúa Nguyễn là Nguyễn-phúc-Chu 阮 福 淍 Quốc-Chúa: 1691-1725) mở khoa thi ở trong phủ chúa, gọi là thi Văn chức 文 職 và thi Tam-ti 三 司. Thi Tam-ti là thi Xá-sai-ti, thi Tướng-thần-lại-ti và thi Lịnh-sử ti. Thi Văn-chức thì thi tứ lục, thơ phú, văn sách; thi Xá-sai-ti thì hỏi về việc binh lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng-thần-lại-ti và Lịnh-sử-ti thì chỉ làm một bài thơ mà thôi
Năm canh-thân (1740), Vũ-vương Nguyễn-phúc Khoát 阮 福 濶 (1738-1765) định lại phép thi: những người đậu