kỳ đệ nhất, gọi là nhiêu-học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ nhị và kỳ đệ tam thì được miễn sai chung thân; đậu kỳ đệ tứ gọi là hương cống, được bổ đi làm tri-phủ tri-huyện.
Xem như vậy thì sự thi-cử ở xứ Nam đời bấy giờ còn sơ lược lắm.
3. Việc vũ-bị. — Họ Nguyễn bấy giờ phải chống nhau với họ Trịnh cho nên phải lo việc vũ-bị hơn. Quân thì chia ra làm năm cơ gọi là: trung cơ, tả cơ, hữu cơ, tiền cơ, hậu cơ. Số quân độ chừng non ba vạn người.
Năm tân-mùi (1631) chúa Sãi lập ra sở đúc súng đại-bác và mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa, cứ hằng năm luyện tập để phòng bị chiến-tranh.
4. Việc thuế khóa. — Điền thổ chia ra làm 3 hạng để đánh thuế. Lại có hạng gọi là thu điền, khô thổ; nghĩa là ruộng đất sấu thì thuế đánh lại nhẹ hơn ruộng đất thường.
Những công điền thì cấp cho dân cầy cấy để nộp thuế; còn ai khai khẩn được đất hoang ra làm ruộng thì cho là tư điền.
Thuế mỏ. — Ở đất Quảng-nam, Thuận-hóa có mỏ vàng; ở đất Quảng-nghĩa có mỏ bạc; ở đất Bố chính có mỏ sắt. Các mỏ ấy đều đánh thuế cả.
Thuế xuất-cảng nhập-cảng. — Lệ cứ những tàu ở Thượng-hải và ở Quảng-đông lại, thì phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu ở Ma-cao, ở Nhật-bản lại, thì phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm la ở Lã-tống lại, thì phải nộp 2.000 quan, đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước phương tây lại thì phải nộp 8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan.
Thuế ấy chia ra làm 10 thành: 6 thành thì đem vào kho, còn 4 thành để nộp cho quan lại binh lính đã coi về việc thu thuế.
5. Số tiền chi thu trong nước. — Năm quí đậu (1753) Vũ vương sai quan Chưởng-thái-dám 掌 太 監 là Mai-văn