người Tàu về nước, tất cả chỉ có 221 người. Con trai thì thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi trở lên thì thích: Thiên-tử binh; 20 tuổi trở lên thì thích: Đầu Nam-triều; còn con gái thì thích vào tay trái hai chữ: Quan-khách.
Đất Quảng-nguyên từ khi bọn Quách Quì lấy được, cải tên là Thuận-châu và có 3.000 quân Tống ở lại giữ, nhưng vì đất lam-chướng, mười phần chết đến năm sáu.
Đến khi nhà Lý cho những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà Tống trả lại châu Quảng-nguyên. Nhưng vì có người nói rằng châu ấy có nhiều vàng, người Tống tiếc của, làm hai câu thơ rằng:
Nhân tham Giao-chỉ tượng,
Khước thất Quảng-nguyên kim.
Đến mùa hạ năm giáp-tí (1084) Nhân-tông sai quan binh-bộ Thị-lang là Lê văn Thịnh 黎 文 盛 sang nhà Tống bàn việc chia địa-giới. Lê văn Thịnh phân-giải mọi lẽ, nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước còn giữ lại. Từ đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ.
Năm đinh mão (1087) vua nhà Tống phong cho Nhân-tông là Nam-bình-vương.
Nhà Tống bấy giờ đã suy-nhược, đến năm bính-ngọ (1126) nước Kim 金 (Mãn-châu) sang lấy mất cả phía bắc nước Tàu, nhà Tống dời đô về đóng ở Hàng-châu 杭 州 (thuộc Chiết-giang) gọi là Nam-tống.
6. ĐÁNH CHIÊM-THÀNH. Nước Chiêm-thành thỉnh-thoảng cứ hay sang quấy-nhiễu, đánh thế nào cũng không được. Năm ất-mão (1075) trước khi đi đánh nhà Tống, Lý thường Kiệt đã sang đánh Chiêm-thành, vẽ được địa-đồ ba châu của Chế Cũ đã nhường ngày trước, rồi cho người sang ở.
Năm quí-mùi (1103) ở Diễn-châu (thuộc Nghệ-an) có Lý Giác 李 覺 làm phản. Lý thường Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Chiêm-thành đem quốc-vương là Chế ma Na 制 麻 那 sang đánh lấy lại ba châu Ma-linh, Bố-chính, v.v... Sang