(Ha-ba-lý) sang điều-đình với Triều-đình ở Huế về việc cho chuộc ba tỉnh Nam-kỳ.
Vua Dực-tông lại sai quan Lại-bộ thượng-thư là ông Phan thanh Giản ra sung chức toàn-quyền cùng với Trần tiễn Thành 陳 踐 誠 và Phan huy Vịnh 潘 輝 泳 để thương-nghị với sứ-thần nước Pháp.
Ông Aubaret đưa bản-thảo tờ hòa-ước, đại-lược nói rằng: Nước Pháp trả lại ba tỉnh Gia-định, Biên-hòa và Định-tường cho nước Nam, chỉ giữ Sàigòn, Mỹ-tho và Thủ-dầu-một để đóng quân. Nhưng nước Nam phải để nước Pháp được quyền bảo-hộ cả 6 tỉnh Nam-kỳ. Nước Nam lại phải chịu mỗi năm là 2.000.000 nguyên tiền thuế.
Sứ hai nước cứ bàn đi bàn lại mãi không xong, mà ở bên Pháp thì có nhiều người không muốn trả lại đất Nam-kỳ. Cuối năm giáp-tí (1864) quan thượng-thư Hải-quân-bộ là hầu-tước De Chasseloup Laubat dâng sớ tâu với Pháp-hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh. Pháp-hoàng nghe lời ấy bèn xuống chỉ truyền cứ chiếu tờ hòa-ước năm nhâm-tuất (1862) mà thi-hành.
Năm ất-sửu (1865), quan thượng-thư De Chasseloup Laubat muốn biết rõ tình-thế bên Việt-nam này, bèn gọi thiếu-tướng De la Grandière về hội-nghị và sai hải-quân thiếu-tướng Roze sang thay. Thiếu-tướng De la Grandière về Pháp cả đi lẫn về mất 7 tháng, lại trở sang kinh-lý việc Nam-kỳ.
Lúc bấy giờ việc cai-trị ở ba tỉnh của Pháp đã thành nếp rồi, thiếu tướng De la Grandière ở Pháp sang đã quyết ý lấy nốt ba tỉnh phía tây. Lại nhân từ khi trước nước Pháp sang lấy Nam-kỳ, người bản-xứ thỉnh thoảng vẫn nổi lên đánh phá, quân Pháp dẹp mãi không yên. Ở Cao-miên lại có tên sư Pu kầm Bô xưng là cháu Nặc ông Chân cũng nổi lên đánh vua Norodom. Súy-phủ ở Sài-gòn đổ cho quan Việt-nam ta xui giục và giúp-đỡ những người làm loạn, bèn sửa soạn việc lấy tỉnh Vĩnh-long, tỉnh An-giang và tỉnh Hà-tiên.