Truyền kỳ mạn lục/5

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHUYỆN KỲ-NGỘ Ở TRẠI TÂY

Hà Nhân, người học-trò quê ở Thiên-trường (nay là phủ Xuân-trường thuộc tỉnh Nam-định), khoảng năm Thiệu-bình ngụ ở Kinh-sư để tòng học trường cụ Ức-trai (Nguyễn Trãi).

Mỗi buổi đi học, đường tất phải qua phường Khúc-giang. Trong phường có cái trại, gọi là trại Tây, dinh cơ cũ của quan Thái-sư triều Trần. Ngày ngày đi qua, sinh thường thấy hai người con gái đứng ở bên trong bức tường đổ nhí-nhoẻn cười đùa, hoặc hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà ném cho sinh nữa. Lâu lâu như thế, sinh không làm ngơ được. Một hôm, mới đứng lại trò-chuyện lân-la. Hai người con gái tươi-cười bảo:

— Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu-nương, một người họ Đào, tên gọi Hồng-nương, nguyên là những tỳ-thiếp của quan Thái-sư. Từ ngày quan Thái-sư qua đời, chúng em vẫn phòng-thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi-đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài-phí mất xuân quang.

Sinh rủ-rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện-trò đằm-thắm, chàng lả-lơi cợt-ghẹo, hai ả thẹn-thò nói rằng:

— Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉn e mưa-gió nặng-nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân hoa mềm-yếu.

Sinh khuyên-lơn dịu-ngọt rồi cùng tắt đèn đi nằm. Lửa đượm hương nồng, ái-ân mười phần thỏa-nguyện. Trong lúc gối êm chăn ấm, sinh bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm chơi. Nàng Liễu ngâm trước:

麝 塵 涼 汗 濕 羅 衣
Xạ trần, lang hãn thấp la y
翠 黛 輕 顰 八 字 眉
Thúy đại khinh tần bát tự my
報 道 東 風 寬 嚲 綠
Báo đạo đông-phong khoan đả lục
纖 腰 擺 亂 不 塍 吹
Tiêm yêu bãi loạn bất thăng xuy

Dịch:

    Màu hôi dâm dấp áo là,
Mây xanh như nét tà-tà như chau.
    Gió xuân xin nhẹ-nhàng nhau,
Thân non mềm chịu được đâu phũ-phàng.

Nàng Đào cũng tục ngâm:

天 高 禁 御 漏 聲 遲
Thiên cao cấm ngự lậu thanh trì,
燈 擁 銀 缸 出 絳 帷
Đăng ủng ngân giang xuất giáng duy.
分 付 才 郎 攀 折 去
Phân phó tài lang phan triết khứ,
新 紅 認 取 小 桃 枝
Tân hồng nhận thủ tiểu đào chi.

Dịch:

    Cung sâu thưa điểm giọt rồng,
Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung-linh.
    Tài-lang mặc sức vin cành,
Đào non nhận lấy những nhành thắm-tươi.

Sinh vỗ tay cả cười mà rằng:

- Tình-trạng trong chốn buồng xuân, tả đến như thế thì thật là diệu tuyệt. Lời hoa ý gấm, tôi khó lòng theo kịp hai nàng.

Sinh bèn lại tục ngâm:

倦 掩 書 齋 客 夢 慵
Quyện yểm thư-trai khách mộng dung,
誤 隨 雲 雨 到 巫 峯
Ngộ tùy vân vũ đáo Vu-phong.
交 飛 蝶 弄 參 差 白
Giao-phi điệp lộng sâm-si bạch,
連 蒂 花 開 次 第 紅
Liên-đế hoa khai thứ đệ hồng.
並 宿 任 教 鶯 上 下
Tịnh túc nhiệm giao oanh thướng há,
分 流 忍 禁 水 西 東
Phân lưu nhẫn cấm thủy tây đông.
絕 憐 均 是 風 流 種
Tuyệt liên quân thị phong-lưu chủng,
興 到 風 流 自 不 同
Hứng đáo phong-lưu tự bất đồng.

Dịch:

Quê khách buồng văn giấc lạnh-lùng,
Mây mưa bỗng lạc tới Vu-phong.
Đua bay bướm giỡn so-le trắng,
Liền cuống hoa phô rực-rỡ hồng.
Một ổ thỏa thuê oanh ấm-áp,
Đôi dòng san-xẻ nước tây-đông.
Hữu tình cùng giống phong-lưu cả,
Mỗi vẻ nhưng riêng thú đượm nồng.

Từ đó về sau, hai nàng cứ sớm đi tối đến, ngày nào cũng giống ngày nào. Sinh cho là sự kỳ-ngộ của đời mình, so với chuyện xưa, có thể sánh với Bùi Hàng và vượt hơn Tăng Nhụ[1].

Một buổi tối mưa dầm gió bấc, nhưng hai nàng vẩn đúng hẹn đến, khẽ bảo sinh rằng:

— Chúng em sợ lỗi hẹn nên phải cố đến, nhưng thân như cái én, có chịu nổi rét mướt đâu.

Sinh bèn kéo Liễu vào lòng mà ấp-ủ, đùa bảo rằng:

— Vẻ kiều-diệm của em Liễu thật là tột bậc, có thể xứng đáng với một câu thơ cổ: « Mỹ nhân nhan sắc đẹp như hoa ».

Đào lặng-lẽ cúi đầu, có dáng hổ-thẹn, rồi từ đấy luôn trong mấy hôm không đến.

Sinh hỏi Liễu:

— Em Đào mấy hôm nay có được khỏe không?

Liễu nói:

— Chị ấy vẫn khỏe chứ có làm sao đâu. Chỉ vì hôm nọ chàng khen em đẹp mà không nói gì đến chị ấy, nên chị ấy xấu-hổ không dám đến nữa.

Nhân đưa bài thơ của Đào gửi cho sinh:

晴 霞 骨 格 雪 精 神
Tình hà cốt cách tuyết tinh-thần,
露 蕊 煙 條 兩 樣 新
Lộ-nhị yên điều lưỡng dạng tân.
可 恨 東 皇 私 著 意
Khả hận Đông-hoàng tư trước ý,
一 枝 憔 悴 一 枝 春
Nhất chi tiều-tụy nhất chi xuân.

Dịch:

Băng sương cốt-cách, tuyết tinh-thần,
Nhị mởn ngành mềm đã xứng cân.
Khá trách Đông-hoàng thiên-vị lắm,
Một cành bỏ héo một cành xuân,

Sinh đọc xong buồn-rầu lúc lâu, nhân làm bài thơ họa theo vần trên để đáp lại:

相 思 一 段 一 勞 神
Tương-tư nhất đoạn nhất lao thần,
底 事 纔 成 別 恨 新
Để sự tài thành biệt hận tân.
憑 仗 風 姨 煩 寄 語
Bằng trượng phong di phiền ký ngữ,
爲 誰 憔 悴 爲 誰 春
Vị thùy tiều-tụy? vị thùy xuân?

Dịch:

Tương-tư nặng gánh khổ tâm-thần,
Ân-ái chưa hề lệch cán cân.
Dì gió, nhờ đem tin nhắn-nhủ:
Hoa nào bỏ héo? lá nào xuân?

Đào được thơ, từ đấy mới đi lại như trước. Gặp đêm nguyên-tiêu (rầm tháng giêng), người ở kinh-thành kéo nhau đi chơi vui rầm-rập. Hai nàng mời sinh:

— Nhà chúng em chẳng xa-xăm gì mà chàng chưa hề bước chân đến, thật là đáng trách. Nay gặp lệnh-tiết, chúng em muốn mời chàng quá bộ lại chơi.

Sinh vui-vẻ bằng lòng ngay.

Khi đến trại Tây, qua mấy lần rào, quanh một đoạn tường, đi ước mấy chục trượng thì đến một cái ao sen; hết ao thì là một khu vườn, cây-cối xanh tươi, mùi hoa thơm ngát, nhưng ở dưới bóng đêm lờ-mờ, không nhận rõ được cây gì cả.

Hai nàng nhìn nhau nói:

— Nhà chúng ta chật-chội túi-múi, chi bằng bầy tiệc vui ngay ở trong vườn.

Rồi họ rải chiếu giát trúc, đốt đèn nhựa thông, bóc bánh lá hòe, rót rượu hạt hạnh, các món ăn trong tiệc đều là những món quý-trọng cả. Kế đó thấy những mỹ-nhân tự xưng là họ Vi, họ Lý, họ Mai, họ Dương, này chị họ Kim, kia cô họ Thạch lục-tục đến mừng và dự tiệc. Trời gần sáng, mọi người giải-tán, hai nàng cũng đưa sinh ra đến ngoài tường. Sinh về đến thư-phòng thì mặt trời đằng đông đã rạng.

Sau đó vài tháng, sinh tiếp được tin nhà gửi đến kinh-đô, nói cha mẹ ở nhà đã hỏi vợ cho, giục sinh nên về mau để làm lễ cưới. Sinh bối-rối quanh-co, lòng rất không nỡ, hai nàng đoán biết được tình ý, bảo sinh rằng:

— Bọn chúng em thân bồ vóc liễu, không thể cáng-đáng được việc tần-tảo ở gia-đình. Vả ngôi chủ-phụ trong nhà, tất phải là người trong nền-nếp trâm-anh, chúng em đâu dám chòi-mòi đến. Chỉ mong chàng sau buổi về quê, tình cũ sẽ vấn-vương không dứt, sớm dẹp lòng quyến-luyến hương-thổ để lại tính kế tìm hoa, sẽ xem cây liễu Hàn-Hoành, vẫn chờ đợi với những cành dài ngày xưa[2], cây đào Thôi-Hộ, vẫn chào đón với những hoa cười năm ngoái[3]. Xin chàng lưu ý, đừng vì ấp-yêu duyên mới mà phai lạt tình cũ, khiến chúng em thành những bông hoa vô chủ ở Giang-nam.

Nói rồi cùng nâng chén tiễn-biệt và mỗi người đọc một bài ca. Nàng Liễu ca trước rằng:

帝 城 東 邊 蕃 草 萊
Đế thành đông biên phồn thảo lai,

破 屋 數 間 曲 江 曲
Phá ốc sổ gian Khúc-giang khúc,
銀 蓖 綵 盝 事 梳 粧
Ngân tỳ thái lộc sự sơ trang,
霧 閣 雲 牕 苦 幽 獨
Vụ các vân song khổ u độc,
粵 從 二 八 惜 芳 容
Việt tòng nhị bát tích phương dung.
蝶 使 蜂 媒 未 肯 通
Điệp sứ phong môi vị khẳng thông,
盡 日 對 依 紅 杏 塢
Tận nhật đối y hồng hạnh ổ,
窺 春 羞 問 少 年 叢
Khuy xuân tu vấn thiếu-niên tùng.
挾 書 何 處 佳 公 子
Hiệp thư hà xứ giai công-tử,
學 博 才 奢 貫 經 史
Học bác tài xa quán kinh sử.
草 草 牆 頭 一 見 間
Thảo thảo tường đầu nhất kiến gian,
良 緣 未 許 心 先 許
Lương-duyên vị hứa tâm tiên hứa,
便 將 凡 卉 向 陽 栽
Tiện tương phàm hủy hướng dương tài,
分 付 東 皇 好 好 開
Phân phó Đông-hoàng hảo hảo khai.
絮 暫 迎 風 香 落 漠
Nhứ tạm nghênh phong hương lạc mạc,
影 初 試 暖 綠 徘 徊
Ảnh sơ thí noãn lục bồi hồi.
穠 花 露 滴 檀 心 吐
Nùng hoa lộ trích đàn tâm thổ,
消 得 從 前 春 恨 苦
Tiêu đắc tòng tiền xuân hận khổ.

笙 歌 軟 度 小 蠻 腰
Sinh ca nhuyễn độ Tiểu-man yêu,
脂 粉 膩 勻 西 子 乳
Chi phấn nế quân Tây tử nhũ.
會 來 屈 指 未 周 星
Hội lai khuất chỉ vị chu tinh,
滿 目 山 河 旅 夢 驚
Mãn mục sơn-hà lữ mộng kinh.
淚 落 枌 鄉 魚 遞 信
Lệ lạc phần hương ngư đệ tín,
魂 消 梅 驛 馬 諳 程
Hồn tiêu mai dịch mã am trình.
長 亭 又 趕 車 聲 早
Trường-đình hựu sấn xa thanh tảo,
使 妾 長 憂 來 祖 道
Sử thiếp trường ưu lai tổ đạo.
西 垣 雨 暗 泣 黃 梅
Tây viên vũ ám khấp hoàng mai,
南 浦 波 寒 愁 綠 草
Nam phố ba hàn sầu lục thảo.
梅 黃 草 綠 暗 傷 神
Mai hoàng thảo lục ám thương thần,
妾 在 君 歸 影 暫 分
Thiếp tại quân quy ảnh tạm phân.
鄭 重 爲 君 歌 此 曲
Trịnh trọng vị quân ca thử khúc,
臨 歧 應 有 斷 腸 人
Lâm kỳ ưng hữu đoạn trường nhân.

Dịch:

    Đế thành nọ mé bên đông,
Mấy gian nhà cũ giữa vùng trại hoang.
    Phấn son ngày tháng điểm-trang,
Quạnh-hiu gác khói hiên sương lạnh-lùng.

    Vừa tuần đôi tám xuân dung,
Tin ong sứ điệp chưa thông nẻo nào.
    Bên hoa hôm sớm tiêu-dao,
Đường xuân thẹn chửa dám chào hỏi ai.
    Nho sinh bỗng có một người,
Văn-chương kinh-sử tót vời lảu thông.
    Trong tường ngấp-nghé xa trông,
Tuy duyên chưa buộc mà lòng đã trao.
    Tình yêu chẳng dễ ngăn rào,
Đời hoa thôi đã gửi vào chúa xuân.
    Cành xanh lá biếc thanh tân,
Múa may theo ngọn gió xuân dập-dìu.
    Lòng hoa khi giọt sương gieo,
Sầu xuân đã nhẹ-nhàng tiêu, nhẹ-nhàng.
    Miệt-mài trong cuộc truy-hoan,
Tây Thi[4], ngực nở, Tiểu Man[5] lưng mềm.
    Năm tròn chăn gối vừa êm,
Non sông giục khách chạnh niềm gia-hương.
    Tin nhà gửi đến đau-thương,
Càng đau-thương lúc buông cương dặm ngoài.
    Bon-bon xe ruổi trời-mai,
Lòng em khô-héo tiễn người đường xa.
    Bến Nam cỏ áy bóng tà,
Vườn Tây một rặng mai già khóc mưa.
    Cỏ cây rầu-rĩ tiêu-sơ,
Chàng về thiếp luống ngẩn-ngơ tâm-hồn.
    Vì chàng hát khúc nỉ-non,
Biệt-ly để nặng đau-buồn cho ai.

Đào cũng ca rằng:

秋 霄 抹 碧 兮 秋 葉 棲 丹
Thu tiêu mạt bích hề thu diệp thê đan,
千 戶 萬 戶 兮 寒 砧 聲 乾
Thiên hộ vạn hộ hề hàn châm thanh can.
孤 雁 南 飛 兮 征 鴻 度 關
Cô nhạn nam phi hề chinh hồng độ quan
暮 煙 慘 淡 兮 新 愁 一 般
Mộ yên thảm-đạm hề tân sầu nhất ban
我 公 不 留 兮 我 心 盤 桓
Ngã công bất lưu hề ngã tâm bàn-hoàn
竟 捐 舊 愛 兮 暫 結 新 歡
Cánh quyên cựu ái hề tạm kết tân hoan
河 汾 嘆 菊 兮 楚 畹 羞 蘭
Hà phần thán cúc hề sở uyển tu lan
泛 我 瓊 觴 兮 修 我 銀 盤
Phiếm ngã quỳnh tràng hề tu ngã ngân bàn
別 時 容 易 兮 見 時 良 難
Biệt thời dung dị hề kiến thời lương nan
嗚 呼 一 歌 兮 鬱 陶 長 嘆
Ô hô nhất ca hề uất đào trường than
恨 不 遊 絲 兮 纏 挽 歸 鞍
Hận bất du ty hề triền vãn quy an
恨 不 長 坡 兮 障 杜 回 瀾
Hận bất trường pha hề chướng đỗ hồi lan
恨 不 黃 鶯 兮 喚 客 緡 蠻
Hận bất hoàng-oanh hề hoán khách miên-man
咄 嗟 此 別 兮 何 時 當 還
Đốt ta thử biệt hề hà thời đương hoàn
花 留 洞 口 兮 水 到 人 間
Hoa lưu đỗng khẩu hề thủy đáo nhân-gian
忍 令 小 妾 兮 抱 此 生 冤
Nhẫn linh tiểu thiếp hề bão thử sinh oan

嗚 呼 再 歌 兮 珠 淚 汍 瀾
Ô hô tái ca hề châu lệ hoàn lan.

Dịch:

Trời thu nhuộm biếc chừ, lá thu chen hồng
Đập vải tiếng vang chừ, mọi nhà tây đông
Chim nhạn về nam chừ, chim hồng sang sông
Khói chiều thảm-đạm chừ, sầu mới mênh-mông
Tình-lang chẳng ở chừ, lòng tơ trăm vòng
Tạm cắt tình xưa chừ, về lập tân phòng.
Cúc Hà ủ-rũ chừ, lan Sở thẹn-thùng.
Nâng chén rượu quỳnh chừ, đối bóng trăng trong
Dễ khi ly-biệt chừ, khó lúc trùng-phùng
Than ôi em hát một khúc chừ, nhớ thương khôn cùng.
Hận không sợi tơ chừ, buộc níu chinh-an,
Hận không bờ bãi chừ, gọi khách miên-man.
Ly-biệt từ đây chừ, bao lại đoàn loan?
Hoa lưu cửa động chừ, nước xuống nhân-gian
Nỡ để thân em chừ, ôm mối hờn oan.
Than ôi em hát hai khúc chừ, lệ châu lan-tràn.

Nghe hát xong, sinh rưng-rưng đôi hàng nước mắt rồi cùng hai nàng từ-biệt.

Sinh về đến nhà thì hôn-kỳ đã do cha mẹ định sẵn. Sinh nói với cha mẹ rằng:

— Sinh con trai muốn cho có vợ, sinh con gái muốn cho có chồng, đó vẫn là lòng của cha mẹ mà cũng là phúc của gia-đình. Song con nghĩ mình dòng-dõi tấn thân, mà sự học-hành chưa thành-danh gì cả. Nếu nay có vợ, e không khỏi vui bề chăn gối mà lãng việc sách đèn. Chi bằng việc cưới xin hãy tạm hoãn, đợi khi con đường mây nhẹ gót, thỏa-nguyện bình-sinh, bấy giờ hãy tính đến, tưởng cũng chưa muộn.

Cha mẹ không nỡ trái ý sinh, việc cưới bèn đình hoãn lại.

Ở nhà chưa bao lâu, sinh vì tưởng nhớ hai nàng mà lúc nào cũng ủ-ê rầu-rĩ, bèn lại lên đường để tới kinh. Vừa đến trại Tây, đã thấy hai nàng đứng đón, tươi-cười hỏi:

— Lang-quân vừa cưới vợ, sao không hẵng ở nhà vầy-vui duyên mới, đã vội lên đường?

Sinh kể rõ nguyên-do, hai nàng đều nắc-nỏm khen rằng:

— Lang-quân thật là một người tín-nghĩa, không lỗi lời ước-hẹn tìm hoa.

— Bèn vì sinh sắm lễ, để lại đến trường cũ theo học.

Sinh tuy mượn tiếng du-học, nhưng bút-nghiên chí nản, son phấn tình nồng. Ngày nào mới buổi xuân-dương, thoắt đã trời đông tiết lạnh. Một hôm sinh ở ngoài về, thấy hai nàng mắt đều đẫm lệ. Sinh giật mình hỏi, hai nàng đều gượng lệ nói rằng:

— Chúng em không may đều mắc bệnh gió sương, khí xuân chưa về, mặt hoa dễ héo, hương hồn một mảnh, chưa biết rồi sẽ trôi-giạt đến nơi nào.

Sinh kinh-ngạc:

— Anh cùng với hai em, duyên không mối-lái, nghĩa kết keo-sơn. Cớ sao các em lại vội nói đến chuyện lìa tan, khiến anh lo sợ như là con chim sợ cung vậy!

Nàng Liễu nói:

— Ham vui ân-ái, ai ai chẳng lòng; nhưng số trời đã định, kỳ về đến nơi, biết làm sao được. Rồi đây cánh rã trong bùn, hương rơi mặt đất, ba xuân cảnh sắc, thú vui biết sẽ thuộc về đâu!

Sinh ngao-ngán buồn-rầu, không sao dứt được. Nàng Đào nói:

— Người sinh ở đời như cái hoa trên cây, tươi héo có kỳ, không thể nào gượng được dù trong chốc lát. Chỉ xin chàng từ đây bồi-dưỡng thân-thể, chăm-chỉ bút-nghiên, ghép liễu[6] thành công, xem hoa[7] thỏa-nguyện, thì chúng em dù vùi thân trong chỗ ngòi lạch cũng chẳng chút phàn-nàn.

Sinh nói:

— Vậy thế cái kỳ tan-tác còn chừng bao lâu nữa sẽ đến?

— Chỉ nội đêm nay thôi. Hễ lúc nào có trận giông-gió nổi lên là lúc chúng em thác hóa. Chàng nếu nghĩ tình ân-ái cũ, quá bộ đến trại Tây thăm-viếng, chúng em sẽ được ngậm cười mà về chốn suối vàng.

Sinh khóc mà rằng:

— Sự-thế cấp-bách như vậy, cũng chẳng biết làm sao được nữa, song anh ở đất khách quê người lưng không túi rỗng, biết lấy gì mà đắp-điếm cho hai em!

Hai nàng nói:

— Thân mệnh của chúng em lảo-lướt như tơ, mong-manh tựa lá. Sau khi thác hóa, đã có mây làm tán, có lốc (gió) làm xe, sương trắng làm ngọc đeo, cỏ xanh làm nệm rải, than-khóc đã oanh già thỏ-thẻ, viếng-thăm đã bướm héo vật-vờ, chôn-vùi có lớp rêu-phong, đưa tiễn có dòng nước chảy, khói tan gió bốc không phiền phải đắp-điếm gì cả.

Đoạn rồi mỗi người để đôi hài cườm lại tặng sinh và nói:

— Mất người còn chút của tin, gọi có vật này để tặng nhau trong lúc sinh-ly tử-biệt. Sau này khi chàng ướm thử, sẽ như là chúng em còn ấp-yêu ở dưới chân chàng.

Tối hôm ấy, quả nhiên hai nàng không đến. Khoảng gần nửa đêm, trời bỗng nổi cơn mưa gió dữ-dội, sinh đứng tựa lan-can, buồn-rầu ngơ-ngẩn như kẻ mất hồn. Nhân sang chơi nhà ông cụ già bên láng-giềng, kể-lể về câu chuyện ấy. Ông già nói:

— Ồ! cậu nói rõ chuyện chiêm-bao chửa! Cái dinh-cơ ấy từ khi quan Thái-sư mất đi, trải hơn 20 năm nay, đã thành một nơi hoang-quạnh. Mấy gian đền mốc, một người quét dọn cũng không có, làm gì có nhiều cô gái họ nọ, họ kia như cậu nói. Chẳng qua đó là những hạng gái lẳng-lơ dâm-đãng; nếu không thì là những u-hồn trệ-phách, hiện lên thành yêu-quỷ đó thôi.

Sáng hôm sau, ông già cùng sinh đến trại Tây. Chỉ thấy nếp nhà quạnh-hiu, vài ba cây đào liễu xơ-xác tơi-bời, lá trút đầy vườn, tơ vương khắp giậu.

Ông già trỏ bảo sinh rằng:

— Đây chả phải là nơi cậu đến chơi ư? Chị ả họ Kim, thì đây hoa Kim-tiền. Cô nàng họ Thạch, thì đây cây Thạch-lựu. Đến như họ Lý, họ Vi, họ Dương, họ Mai, cũng đều nhân tên hoa mà làm họ cả. Không ngờ mấy cây hoa ấy lại biến huyễn như thế được.

Sinh bấy giờ mới giật mình tỉnh-ngộ, tự nghĩ mình bấy lâu mê-mải, chỉ là đánh bạn với hồn hoa. Về đến nhà, sinh lấy những chiếc hài tặng ra xem, vừa cầm trên tay, mấy chiếc hài đã thành ra những cánh hoa, bay vèo lên trên không mất.

Sáng hôm sau, sinh đem cầm một cái áo, lấy tiền làm mâm cỗ bày cúng hai nàng; lại làm một bài văn tế như sau này:

惟 二 人
Duy nhị nhân

冰 凝 奇 骨
Băng ngưng kỳ cất
露 滴 姸 芳
Lộ trích nghiên phương
雅 尚 天 然 之 質
Nhã thượng thiên nhiên chi chất
恥 爲 時 勢 之 粧
Sỉ vi thời thế chi trang
均 是 名 姝 第 一
Quân thị danh chu đệ nhất,
信 乎 絕 代 無 雙
Tín hồ tuyệt đại vô sang
閬 苑 英 華 厭 看 富 貴
Lãng uyển anh-hoa, yếm khan phú-quý,
糊 窗 燈 火 好 伴 清 光
Hồ song đăng hỏa, hiếu bạn thanh quang
盆 種 雙 頭 茉 莉
Bồn chưng song đầu mạt lỵ,
池 栖 交 頸 鴛 鴦
Trì thê giao cảnh uyên ương.
惟 願 久 沾 於 恩 海
Duy nguyện cửu triêm ư ân hải,
如 河 遽 返 於 僊 鄉
Như hà cự phản ư tiên hương!
冉 冉 穠 花 頓 改
Nhiễm nhiễm nùng hoa đốn cải
悠 悠 別 恨 空 將
Du du biệt hận không tương.
風 乘 我 我 乘 風 片 時 撩 亂
Phong thừa ngã, ngã thừa phong, phiến thời liêu loạn.
色 是 空 空 是 色 半 夜 凄 凉
Sắc thị không, không thị sắc, bán dạ thê lương

慘 淡 紅 稀 院 落
Thảm đạm hồng hy viện lạc
低 迷 綠 暗 池 塘
Đê-mê lục ám trì đường
深 深 兮 瘞 玉
Thâm thâm hề ế ngọc
鬱 鬱 兮 埋 香
Uất uất hề mai hương
身 世 逐 秋 風 之 客
Thân thế trục thu phong chi khách
繁 華 驚 春 夢 之 塲
Phồn hoa kinh xuân mộng chi trường.
噫 一 朝 離 別
Y nhất triêu ly-biệt,
萬 古 悲 傷
Vạn cổ bi thương
魂 欲 招 兮 不 返
Hồn dục chiêu hề bất phản
蹤 擬 訪 兮 無 方
Tung nghĩ phóng hề vô phương
縱 有 靈 兮 未 泯
Túng hữu linh hề vị dẫn
尚 來 饗 兮 予 觴
Thượng lai hưởng hề dư tràng
嗚 呼 哀 哉
Ô hô ai tai!

Dịch:

Hỡi ơi, hai nàng,
Sương đọng ấy màu,
Băng trong làm cốt.
Ưa vẻ thiên nhiên,
Ghét bề điểm chuốt
Sắc nọ hẳn không hai,

Tài này đành có một.
Anh-hoa vườn Lãng, dửng-dưng những cảnh huy-hoàng,
Đèn lửa song hồ, thân-cận với người nghiên bút.
Ao uyên-ương chim cặp vẫy-vùng,
Chậu mạt-lỵ hoa đôi tươi-tốt,
Những mong bể ái giong thuyền,
Sao bỗng làng tiên trở gót.
Cuộc biến-thiên xui hoa nọ tơi-bời,
Hờn ly-biệt để lòng này kèo-cuột.
Gió cưỡi mình, mình cưỡi gió, một khắc mê-ly,
Không là sắc, sắc là không, nửa đêm vi-vút.
Trên ao vẻ biếc đê-mê,
Trước viện màu hồng thưa-thớt.
Ngọc lấp thảm-thương,
Hương vùi não-nuột.
Thân theo bóng nhạn, phơ-phất lưng trời,
Mộng tỉnh phồn-hoa, bàng-hoàng một phút.
Ôi! Một sớm chia-phôi, nghìn thu đau-xót.
Hồn lạc không về
Người đi mất hút
Linh-thiêng ai hỡi có hay,
Hiến hưởng rượu này mới rót,
Than ôi thương thay!

Đêm hôm ấy, chàng chiêm-bao thấy hai nàng đến tạ rằng:

— Đội ơn lang-quân làm bài văn-tế viếng, khiến cho thanh-giá chúng em càng bội tăng lên. Cảm vì tình ấy, nên chúng em về đây bái-tạ.

Sinh muốn lưu lại, nhưng hai nàng vụt đã vụt bay lên trên không đi mất.

Lời bình

Than ôi, thanh lòng không bằng ít dục. Dục nếu yên lặng thì lòng trống-rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng-phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn đến quấy-nhiễu làm sao được. Chàng họ Hà lòng trẻ có nhiều vật-dục, cho nên loài kia mới thừa cơ quyến-rũ. Nếu không thì những giống nguyệt-quái hoa yêu, mê-hoặc sao được mà chẳng phải thu-hình nép bóng ở trước Lương Công là một bậc chính-nhân[8]. Kẻ sĩ gánh cập đến học ở Trường-an, tưởng nên chăm-chỉ về học-nghiệp, tuy không dám mong đến được chỗ vô-dục nhưng giá gắng tiến được đến chỗ quả dục thì tốt lắm.

   




Chú thích

  1. Bùi Hàng đời Đường đi thi trượt trở về, đến trạm Lam-kiều khát nước, vào một nhà gần đó xin uống. Trong nhà có bà cụ già gọi một cô gái tên là Vân Anh bưng nước ra cho. Thấy Vân An nhan-sắc tuyệt-đẹp, Bùi Hàng xin lấy làm vợ. Bà già đòi phải đem bộ chày cối ngọc để giã một viên thuốc tiên thì sẽ gả cho. Sau Hàng quả đi kiếm được chày cối ngọc đem đến rồi được lấy người con gái ấy. Té ra người con gái là một nàng tiên. Sau vợ chồng đưa nhau vào ở trong động Ngọc-phong, đều thành tiên cả (Thượng hữu lục).— Ngưu Tăng Nhụ cũng người đời Đường, đi thi trượt về, đến dưới núi Minh-cao, trời tối lạc đường. Một lúc có bóng trăng lên, thoáng thấy mùi hương lạ. Xa trông một chỗ có bóng đèn, tìm đến, thấy một tòa cung-đền rực-rở, thì là miếu của bà Thái-hậu họ Bạc đời Hán. Bà Bạc-hậu hiện lên mời đón, rồi lại họp cả các bạn như Thích phu-nhân, Chiêu-quân, Thái-chân, Phan-phi v.v để cùng làm thơ, Tăng Nhụ cũng làm một bài (Thượng hữu-lục).
  2. Hàn Hoành 韓 翝 là một thi-sĩ đời Đường, làm quan về đời vua Đức-tôn. Thuở hàn-vi, có người hiệp-sĩ là Lý-sinh đem người vợ lẽ yêu và đẹp là Liễu-thị tặng cho, lại giúp cho một số tiền lớn. Sau gặp loạn, vợ chồng tan-tác mỗi người một nơi. Liễu-thị muốn giữ trọn tiết với Hoành, cắt tóc đi tu ở chùa Pháp-linh. Khi hết loạn, Hoành thuê người đi tìm Liễu, có bài thơ rằng: « Chương-đài-liễu! Chương-đài-liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thùy, dã ưng phan triết tha nhân thủ ». Nghĩa là: Chương-đài-liễu xanh xanh ngày trước, nay còn chăng tha-thướt vẻ oai? Ví còn tha-thướt cành dài, bẻ vin chắc đã tay ai khỏi nào! Liễu được thơ, cũng làm một bài trả lời. Sau hai người lại đoàn-viên (xem Tình-sử).
  3. Thôi Hộ đời Đường, ngày thanh-minh đi chơi, khát nước vào một nhà xin uống, thấy một người con gái đem chén nước ra cho rồi đứng dựa cây dào nhìn mình chăm-chú. Thôi đi rồi bẵng một năm, năm sau cũng ngày thanh-minh lại đến nhà ấy thì thấy đóng cửa. Chàng đề một bài thơ vào cửa như sau: « Khứ niên môn nhật thử môn trung, nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất chi hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu đông phong ». Nghĩa là: Bữa nay năm ngoái chốn qua chơi, mặt ngọc hoa đào óng-ánh tươi. Mặt ngọc ngày nay đâu vắng tá? Hoa đào năm ngoái vẫn còn cười. Người con gái xem thơ, nhớ thương rồi ốm chết. Chợt Thôi Hộ đến, nghe tiếng khóc chạy vào ôm thây mà khóc. Người con gái bỗng hồi tỉnh rồi sống lại. Ông bố bèn đem cô con gái gả cho Thôi Hộ (Tình-sử).
  4. Nàng Tây Thi là vợ vua Phù Sai nước Ngô người tuyệt đẹp.
  5. Nàng Tiểu-Man, vợ lẽ của nhà thi-sĩ Bạch Cư Dị, nàng múa rất khéo.
  6. Tôn Kính đời Hán, ghép lá liễu lại để viết sách mà học.
  7. Xem hoa là những người thi đỗ được cưỡi ngựa xem hoa ở vường Thượng-uyển.
    Nhưng liễu và hoa ở đây còn có ý ánh chiếu vào tên họ của hai nàng.
  8. Đời Đường, Vũ Tám Tư có người nàng hầu là Tố Nga, nhan-sắc đẹp lắm. Ông Địch Lương Công đến chơi, Tám Tư gọi ra, nàng bỗng lẫn mất. Tám Tư thấy chỗ góc nhà có mùi hương bay thơm ngát, đến lắng nghe, chính là Tố Nga. Nàng nói: « Thiếp là con yêu mặt trăng, Thượng-đế cho xuống hầu-hạ ông. Lương Công là bậc chính-nhân đương đời, thiếp không dám dàn-lá ».