Việt Hán văn khảo/II.V7-2
CÁC CA KHÚC
Trong ca khúc lại chia ra nhiều điệu khác nhau. Trích ra mấy điệu sau này:
ĐIỆU TÂY-GIANG NGUYỆT
Than việc đời
Nguyên văn
Cổn cổn tràng-giang thệ-thủy đông,
Lãng hoa đào tận Anh-hùng.
Thị phi thành bại chuyển đầu không,
Thanh sơn y cựu tại.
Kỷ độ tịch-dương hồng!
Bạch phát ngư tiều giang chử thượng,
Quán khan thu nguyệt xuân phong,
Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng.
Cổ kim đa thiểu sự,
Đô phó tiếu đàm trung!
Dịch theo nguyên điệu
Cuồn cuộn sông dài nước chảy suôi,
Anh-hùng sóng rập cát vùi.
Dở hay chớp mắt việc qua rồi.
Non xanh trơ vẫn đó,
Trải mấy bóng chiều soi!
Hai chú ngư tiều đầu trắng xóa,
Giăng trong gió mát ưa mùi.
Gập nhau chén rượu chuyện trò vui.
Bao nhiêu việc kim cổ,
Đem bỏ cuộc vui cười.
ĐIỆU XUÂN QUANG HẢO
Mùa xuân
Nguyên văn
Xuân như họa,
Noãn khí vi.
Đào hoa hàm tiếu, liễu thư my.
Điệp loạn phi,
Tùng lý hoàng-oanh nghiễn ngoãn,
Lương đầu tử-yến nam ni
Hạo đãng xuân khuê bất tự trì.
Xuyết tân thi.
Dịch nguyên điệu
Cảnh như vẽ,
Gió hây hây.
Hoa đào mỉm miệng, liễu giương mây.
Bướm nhặng bay,
Trong bụi oanh vàng rỉu rít,
Đầu nhà én đỏ hót hay,
Buồng xuân rạo rục mối tình gây,
Đề thơ này!
ĐIỆU CÁCH PHỐ LIÊN
Mùa hạ
Nguyên văn
Kiền khôn tăng trứ uất áo,
Thảo lý thanh oa náo,
Chi đầu hàn-thiền tảo.
Thanh thanh đỗ-vũ não,
Á á hoàng ly lão,
Tần tương cáo:
Xuân chủ qui hề như hà hảo?
Giá ban cánh sắc,
Thiêm khởi nhất phiên lạo lạo.
Hạnh Chúc dong quân, cổ nhất khúc nam huân tháo.
Thấn tống hà-hương đáo,
Tiền phiên thương tâm,
Tùy phong tận táo.
Dịch nguyên điệu
Giời đất nhiều phần nóng bức,
Bãi cỏ ếch rộn rực,
Đầu cành ve kêu nhức.
Tiếng quốc nghe hậm hực,
Giọng oanh thêm náo nức,
Dường tấm tức:
Chúa xuân về rồi ấy mới cực!
Kìa kìa cánh sắc,
Ngao ngán lòng người quá sức.
May đâu Chúc-dong, gẩy một khúc đàn giải nực,
Thoảng mùi sen thơm phức.
Một trận gió bay,
Sạch nỗi buồn bực.
ĐIỆU BỘ BỘ THIỀM
Mùa thu
Nguyên văn
Thủy diện phù lam sơn tước ngọc,
Kim phong tiễn tiễn xao hàn trúc.
Lô hoa vạn lý bạch y y,
Thụ sắc sương ngưng hồng nhiễm lục,
Oánh triệt Thiềm-cung Nga độc túc,
Dao giai bộ bộ thu hoài xúc.
Bất như kinh lai ly hạ cúc hoa hương.
Nhàn tọa phủ hồ đàn nhất khúc.
Dịch nguyên điệu
Mặt nước trong veo, non tựa ngọc,
Gió vàng hây hẩy khua khóm trúc.
Hoa lau muôn dặm trắng phau phau,
Cây cối vẻ hồng sen vẻ lục.
Cung Thiềm sáng quắc ả Hằng ngủ,
Dạo bước thềm Dao tình rạo rục.
Chi bằng đến thẳng dưới giậu hoa cúc thơm,
Ngồi khểnh vỗ đàn gẩy một khúc.
ĐIỆU NHẤT TIỄN MAI
Mùa đông
Nguyên văn
Huyền minh bá lịnh mãn quan san,
Hồng dĩ nam hoàn!
Nhạn dĩ nam hoàn!
Sóc phong lẫm liệt tuyết man man,
Biến ỷ lan-can!
Quyện ỷ lan-can!
Ủng lô thương nhĩ giác thanh nhan,
Tọa chẩm năng an!
Ngọa chẩm năng âm!
Khởi quan Cô-dịch lạc trần gian,
Hoa bất tri hàn!
Nhân bất tri hàn!
Dịch nguyên điệu
Khí đen mù mịt tỏa non sông,
Hồng về nam xong!
Nhạn về nam xong!
Gió bắc căm căm tuyết mịt mùng,
Tựa triện ngồi trông!
Tựa triện đứng trông!
Sưởi lò mặt vẫn rá như đồng,
Ngồi chẳng yên lòng!
Nằm chẳng yên lòng!
Dậy xem phong cảnh lúc giời đông,
Hoa quên lạnh lùng!
Người quên lạnh lùng!
(Bốn bài trên này dịch văn của bà Chúa Liễu).
Trên này kể qua một vài thể, chớ cũng còn nhiều điệu nữa, không kể hết được. Còn như lối ca ngâm khúc điệu riêng của ta thì lại khác với của Tàu nay kể qua lề lối các thể và trích lấy mỗi thể một vài đoạn hoặc một vài bài văn cổ đăng ra sau này.
ĐIỆU LỤC BÁT
Điệu này cứ câu trên 6 chữ, câu dưới 8 chữ, mà vẫn chữ thứ 6 câu dưới, phải tiếp vần với chữ cuối câu trên. Bốn câu 3 vần thành một đoạn nhỏ. Muốn làm bao nhiêu đoạn cũng được, tức như lối chuyện Kiều, chuyện Nhị-Độ-Mai v.v.
Trích lục vài câu Kiều
Mịt mù dặm cát đồi cây,
Tiếng gà điểm nguyệt dấu giầy cầu sương.
Canh khuya thân gái, dặm trường,
Phần e đường sá, phần thương dãi dầu.
ĐIỆU SONG THẤT LỤC BÁT
Lối này cứ hai câu đầu mỗi câu 7 chữ, mà cứ chữ cuối câu đầu phải dùng tiếng trắc mà hạ xuống tiếng bằng; câu thứ ba 6 chữ, tiếp theo vần bằng, câu thứ tư 8 chữ lại tiếp theo như lối lục bát. Lối này thì 4 câu phải 4 vần. nhưng có khi vần câu đầu không tiếp cũng được, tức như lối chuyện Cung-oán, chuyện Chinh-phụ-ngâm v.v.
Trích lục vài câu Cung-oán
Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ-y lạnh ngắt như đồng.
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
ĐIỆU BIẾN THỂ LỤC BÁT
Lối này cũng dùng trên sáu dưới tám, nhưng thỉnh thoảng chữ thứ tư câu dưới, tiếp vần với chữ cuối câu trên, tức lối chuyện Quan-âm, chuyện Phạm-công v.v.
Trích lúc mấy câu Quan-âm
Này sự con vua thủy thần,
Thái-tử đi tuần đội lốt lý ngư.
Đi nhầm mắc lưới vẩn vơ,
Chẳng chậm một giờ dao thớt phải sa.
ĐIỆU PHONG DAO
Phong dao là những câu ví von ở nơi thôn dã, hoặc điệu hát xẩm, hoặc khúc ru em, lời lẽ tuy thiển cận mà thực tả ra chân tính chân tình. Lối này cũng theo lối lục bát, nhưng thỉnh thoảng đệm thêm một vài tiếng, cũng thành một giọng riêng.
Trích lục vài câu ngạn ca
1° Đêm đông tràng,
Em nghe con vượn cầm canh,
Nghe chim khuyên tổ, nghe anh khuyên nàng.
Giầu giữa làng trái duyên khôn ép.
Khó nước người phải kiếp tìm đi.
Tiền trăm bạc chục kể chi.
Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân, nay anh học đường gần, mai anh học đường xa.2°
Lấy anh từ thủa mười ba,
Đến năm mười tám đã hòa năm con.
Ra đường thiếp hãy còn son,
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
3°Con sông thương nước chảy đôi ba dòng,
Đèn khêu đôi ngọn anh trông ngọn nào.
Muốn tắm mát lên ngọn sông Đào,
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh;
Đôi tay vít lấy đôi cành,
Quả chín thì hái quả xanh thì đừng,
Ba bốn năm ăn ở trong rừng,
Chim kêu vượn hót nửa mừng nửa lo,
Trót sa chân nhỡ bước xuống đò,
Gieo mình xuống xập nửa lo nửa phiền.
ĐIỆU XƯỚNG CA
Điệu xướng xa là bài hát của ả đào hay hát. Lối này đại để câu mới mở hoặc 4, 5 chữ, hoặc 7 chữ hạ tiếng trắc rồi tiếp một câu 8 chữ mà đưa xuống vần bằng. Kế đến câu thứ ba chữ cuối cùng phải tiếp vần với chữ cuối cùng câu thứ hai; mà chữ thứ 5 hoặc thứ 6 câu thứ tư lại tiếp vần câu thứ ba mà đưa xuống vần trắc. Kế đến hai câu thơ hoặc 5 chữ hoặc 7 chữ, hay là một vài câu đi lưu thủy rồi đưa xuống một câu độ 7, 8 chữ, cuối cùng thả một câu 5, 6 chữ lửng lơ.
Trích lục vài bài hát cổ
I.— Chán đời
Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy,
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười!
Thôi công đâu mà rước lấy sự đời,
Tiêu khiển một vài chuông lếu láo.
Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu,
Trầm tư bách kế bất như nhàn.
Bóng thiều quang thấp thoáng dưới nam san,
Ngoảnh mặt lại, cửu-hoàn coi cũng nhỏ.
Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ,
Mảnh hình hài không có, có không.
Lọ là thiên tứ vạn chung!
II Gặp tình-nhân
Tài tử với dai nhân là nợ sẵn,
Giải cấu nan là chữ làm sao?
Trải xưa nay chừng đã xiết bao,
Kìa tan hợp, nọ khứ lưu đâu dám chắc!
Giai nhân khứ khứ hành hành sắc.
Tài tử chiêu chiêu mộ mộ tình,
Uẩy kìa ai như mây tuôn, như nước chẩy, như gió mát, như trăng thanh,
Lơ lửng khéo trêu ngươi chi mãi mãi?
Giời đất có san đi mà sẻ lại,
Hội tương phùng còn lắm lúc về sau!
Yêu nhau xin nhớ nhời nhau.
III Gặp ả đầu cũ
Hồng hồng, tuyết tuyết,
Mới ngày nào còn chưa biết chi chi,
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì,
Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu,
Ngã vị khứ thời khanh thượng thiếu,
Khanh lâm trưởng hậu ngã thành ông.
Cười cười nói nói thẹn thùng,
Nghĩ bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.
Vui một thú thanh san ngảnh lại,
Những ngây ngây dại dại vì tình.
Đàn ai một tiếng dương-tranh!