25223Việt Hán văn khảo — Việt Hán văn khảo ra đời của Hoàng Tăng Bí Tự ngôn của Phan Kế Bính1918Phan Kế Bính
BIBLIOTHÈQUE SCOLAIRE FRANCO-ANNAMITE
PHAN KẾ-BÍNH
VIỆT-HÁN VĂN-KHẢO
ÉTUDES
SUR LA LITTÉRATURE SINO-ANNAMITE
Onvrage adopté par la Commission des Manuels sco- laires pour les écoles franco indigènes de l'Indochine
2e ÉDITION (4e mille)
EDITIONS NAM-KY 1938
VIỆT-HÁN VĂN-KHẢO
Phan Kế-Bính 1875–1921
PHAN KẾ-BÍNH
VIỆT HÁN VĂN KHẢO
ÉTUDES SUR LA LITTÉRATURE SINO-ANNAMITE
(Kỳ Hội-đồng duyệt-thư do quan Giám-đốc Học-chánh Bắc-kỳ Bérit Debat chủ-tọa họp ngày 8 Septembre 1934 đã nhận cho quyển sách này dùng làm sách giáo-khoa trong các trường Pháp-Việt).
2e ÉDITION (4e mille)
EDITIONS NAM-KY 1938
Việt-Hán Văn-Khảo ra đời.
Văn-chương là một thứ khoa-học rất cao và rất khó, không những là một lối thù-ứng tiêu-khiển rất tao-nhã, mà lại biểu-lộ được tính-tình và tư-tưởng của người ta, có thể cảm-xúc được nhân-tâm, duy-trì được phong-hóa, cái công-dụng của văn-chương cũng không phải là nhỏ. Tất phải là người có tính thông-minh, có tài linh-hoạt, lại phải có công học-vấn điêu-luyện, thì mới có thể nói đến chuyện văn-chương. Nước Nam từ xưa theo học chữ nho, trong nước rất trọng nghề văn-chương, những người thông-minh tuấn-tú đều đua ganh nhau về nghề ấy, dẫu rằng khi ấy theo học chữ nho, mà chữ nho là văn-tự nước khác, rất khó hiểu khó thông, số người biết chữ rất ít, thế mà xưa kia đã bao nhiêu người nhả ngọc phun châu, bao nhiêu áng kỳ-văn kiệt-tác, làm vẻ-vang cho lịch-sử nước Nam, nước Tàu đã khen là một nước văn-hiến (có văn-hóa và nhiều người hiền). Xem thế thì biết rằng người mình vẫn ham chuộng văn-chương và lại nhiều người có tài làm văn-chương. Từ ngày khoa cử cũ đã bỏ, chữ nho đã hầu thành một thứ cổ-điển ít người học, trong nước nổi lên cái phong-trào chấn-hưng quốc-văn, người mình đương ham chuộng văn-chương quốc-ngữ. Nhưng văn-chương là một nghề rất khó, như đã nói ở trên kia, thể cách rất nhiều, không phải chỉ học lỏm làm mò mà có thể đặt mình vào trong làng văn được. Người mình đương ham thích làm văn, mà chữ nho đã bỏ, không có trường học, không có thầy dạy vẽ bảo rèn tập cái nghề làm văn (vì rằng xưa kia ta theo học chữ nho, văn-chương tiếng minh, toàn theo thể cách chữ nho cả). Những người thích văn-chương và muốn làm văn-chương, phần nhiều người đương ước ao được một quyển sách nói về nghề văn-chương để làm người dẫn đường chỉ lối cho mình trong cái nghề rất tao-nhã và rất khó khăn này.
QuyểnViệt-Hán Văn-khảomới xuất-bản đây, thật là đúng mùa và thỏa cái lòng ước-vọng của những người có chí muốn chiếm một cái địa-vị ở trong làng văn.Người viết quyển sách này là ông cử Phan Kế-Bính, là một cự-phách ở trong làng văn, và là một nhà ngôn-luận trứ-danh ở trong làng báo, chắc rằng bà con ta phần nhiều cũng còn nhớ cả. Ông Phan Kế-Bính là một nhà nho-học tinh thâm, có tài riêng về văn-chương chí-khí lại cao-khiết, tư tưởng lại rộng xa, không ham chuộng danh lợi mà chìm nổi theo đời. Khi đỗ cử-nhân, liền đặt mình vào trong trường ngôn-luận, mười mấy năm trời, nổi tiếng ở trong báo-giới, ai cũng công nhận ông là một nhà ngôn-luận có nhiệt-thành, có học-thức lại có khoa ngôn-ngữ, có tài văn-chương. Ông tính rất ham học, có chút thì giờ nhàn rảnh, lại ra công khảo-cứu và để ý vào nghề trước-thuật, vì thế sức học càng giàu, trí-thức càng rộng, mà những sách của ông làm ra, sách soạn cũng như sách dịch, không những là làm giàu cho kho quốc-văn quí báu của ta, mà lại thật có bổ-ích cho người đọc. Ông lại dùng con mắt tinh để suy xét, ông biết rằng nghề văn-chương ở nước ta bây giờ, rất có nhiều người ham thích, mà lối học cũ đã bỏ, nghề làm văn thật không có thầy, ông mới nghiên-tinh đàn-tứ, suy xét tìm tòi, dùng biết bao nhiêu công phu, tốn biết bao nhiêu thì giờ, mới viết ra quyểnViệt-Hán Văn-khảonày. Trong quyển sách này, đầu hết ông phát minh cái nguyên-lý văn-chương, cho người ta biết rằng văn là bởi tính-tình và tư-tưởng của người ta mà sinh ra, khi vui khi buồn, tiếng cười tiếng khóc, lời thở than của người chinh-phụ, câu hát nghêu ngao của đứa mục-đồng đều là cái gốc văn-chương cả. Thử nói đến cái thể-cách văn-chương, và phép làm văn-chương, ông dẫn dụ rất là kỹ lưỡng rõ ràng, người có chí muốn làm văn-chương, nếu dùng công đọc đi đọc lại cho thật kỹ càng mà tự mình hiểu được, thì cái bí quyết văn-chương mười phần cũng đã hiểu được tám chín, dẫu thầy giỏi bạn hiền ngồi bên cạnh, sự lợi ích cũng chẳng qua như thế mà thôi. Ông lại nói đến cái lý-thú của văn-chương và cái kết quả của văn-chương, khiến cho người ta đều biết rằng văn-chương thật là quốc-hoa quốc-túy, thật có bổ ích cho loài người, chớ không phải là vô dụng phù hư, như là người đời xưa đã bàn nói.Sau hết ông lại nói đến văn-chương đời thượng-cổ, văn-chương đời trung-cổ và văn-chương cận thời, thay đổi thế nào khác nhau thế nào, đều là việc rất cần thiết mà người trong làng văn nên biết. Nói tóm lại, quyểnViệt-Hán Văn-khảonày thật là người hướng-đạo và xe chỉ-nam của những người muốn nhập tịch làng văn, và nghề văn-chương của nước nhà, cũng ngày càng tiến-bộ. Quyển sách này không những là có công với người làm văn, mà lại có công với nền quốc-văn. Từ nay dở đi, áng quốc-văn nước Nam ngày càng rực rỡ tốt tươi, đủ là văn-chương hoa quốc, thỏa cái lòng ước-vọng của tác-giả khi cầm bút viết quyển sách này, và bõ cái công phu của tác-giả đã mất bao nhiêu ngày giờ để tìm kiếm thu góp những tài-liệu để viết quyển sách này, ký-giả khi viết bài này, cũng chứa chan những sự ước mong như thế.
Ông nguyên là một nhà ngôn-luận trứ danh trong báo giới.
Năm 1907 ông coi phần chữ nho trong báo Đăng-cổ.
Năm 1912 ông vô Nam-kỳ biên-tập báo Lục-tỉnh tân-văn.
Năm 1914 báo Đông-dương tạp-chí xuất thế, ông lại trở về Bắc giúp việc biên-tập.
Năm 1918 Đông-dương tạp-chí đổi ra Trung-Bắc tân-văn và Học-báo, ông lại giữ phần viết xã-thuyết.
Văn ông riêng có vẻ thuần-túy, lột hết được tinh-thần của tư-tưởng và ý-nghĩa của câu văn Tàu, mà văn-chương lại giản-dị dễ hiểu. Ông vốn thấm nhuần cái đạo học của Khổng Mạnh, ông lại biết đem cái đạo học ấy mà ứng-dụng với đời, lấy đạo trung-dung của thánh-hiền làm tiêu-chuẩn.
Các sách của ông vừa dịch vừa làm trong khoảng 14 năm làm báo kể ra rất nhiều, trong số ấy có nhiều quyển bây giờ các trường dùng làm sách giáo-khoa.
Các sách của ông dịch ra như sau này: Tam quốc chí (1907), Đại-Nam điển-lệ toát-yếu của cụ Hiệp Đỗ (1915-1916), Đại-Nam nhất thống chí của cụ Hiệp Cao (1916), Việt-Nam khai quốc chí truyện của cụ Nguyễn-bảng-Trung (1917), Đại-Nam liệt truyện tiền biên (1918), Đại-Nam liệt-truyện chính biên (1919).
VIỆT HÁN VĂN KHẢO
(Etudes sur la littérature sino-annamite)
Phan Kế-Bính soạn
TỰ NGÔN
Ta trông trên bầu trời, trăng sao vằng vặc, sông ngân-hà lấp lánh, lúc cầu vồng mọc, khi đám mây bay, bóng dáng chiều hôm, cơn mưa buổi sớm, làm cho sướng mắt ta, gọi là văn-chương của bầu trời. Ta nhìn xem dưới trái đất, ngọn núi kia cao chút vút, khúc sông nọ chạy quanh co, chỗ rừng rú, nơi hồ đầm, cây cổ-thụ um thùm, đám cỏ hoa sặc sỡ, nào thành, nào quách, nào tháp, nào chùa, nào đám đồng điền cây cối tốt tươi, nào chỗ thị thành lâu đài san sát, làm cho vui mắt ta, gọi là văn-chương của trái đất. Ta xem trong sách, nghe những nhời nghị luận của các bậc thánh-hiền, xem những bài trước tác của các nhà văn-sĩ, câu thơ đoạn phú, khúc hát điệu ca, tươi như hoa, đẹp như gấm, vui như tiếng đàn tiếng địch, vang như tiếng khánh tiếng chuông, làm cho vui tai ta, sướng dạ ta, gọi là văn-chương của loài người.
Văn là gì? văn là vẻ đẹp. Chương là gì? chương là vẻ sáng. Nhời của người ta, rực rỡ bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp vẻ sáng, cho nên gọi là văn-chương.
Người ta ai là không có tính-tình, có tư-tưởng. Đem cái tính-tình tư-tưởng ấy, diễn ra thành câu nói, tả ra thành đoạn văn, gọi là văn-chương. Vậy thì văn-chương tức là một bức tranh vẽ cái cảnh tượng của tạo-hóa cùng là tính-tình và tư-tưởng của loài người bằng nhời nói vậy.
Văn-chương chẳng những là một nghề chơi thanh nhã để di tình dưỡng tính mà thôi; mà lại có thể cảm động được lòng người, di dịch được phong-tục, chuyển biến được cuộc đời, cái công-hiệu về đường giáo hóa lạicàng to lắm. Cho nên xưa nay vẫn lấy văn-chương làm một khoa-học rất cao: mà bên Âu-châu lại kể vào một nghề mỹ-thuật, vì là cũng bởi ở tay tài tình mới tả được ra thành văn-chương linh động có thần.
Nước Việt-Nam ta, xưa nay chẳng thiếu gì danh văn kiệt tác, tuy lý-tưởng so với Âu văn thì cũng khí hẹp hòi thực, song những ý tứ cao kỳ, những lời chính đáng, những vẻ châu ngọc gấm thêu, cũng đủ lưu truyền làm gương soi chung cho một nước thì cũng có thể tự phụ được là một nước có văn-chương.
Văn-chương của ta, phần nhiều lại gốc ở nước Tầu. Nay ta muốn biết văn-chương của ta thì trước hết ta lại nên thăm khảo đến văn-chương của Tầu nữa. Mà muốn biết cho đến nơi đến chốn, cho tường tận thủy chung, thì lại phải xét xem căn-nguyên văn-chương ở đâu mà ra, thể cách văn-chương thế nào, lý thú làm sao, kết quả được những gì, trình độ mỗi thời biến đổi làm sao, có xét kỹ như thế thì mới biết được hết nguồn gốc văn-chương.
Ký-giả vì lẽ ấy, soạn ra tập « Việt-Hán văn khảo » này, chủ ý cốt nghị luận kê cứu về mục văn-chương của ta và của Tầu, trước là để lưu truyền cái tinh-thần, cái lề lối văn-chương của cổ nhân, sau là để giúp thêm một chút vào việc khảo cứu trong mục văn-chương cho hậu nhân vậy.
Trong tập sẽ chia ra từng tiết từng mục như sau này
Tiết thứ
I.
— Luận về nguyên-lý văn-chương.
Tiết thứ
II.
— Nói về các thể-cách văn-chương.
Tiết thứ
III.
— Nói về phép làm văn.
Tiết thứ
IV.
— Nói về lý-thú văn-chương
Tiết thứ
V.
— Nói về sự kết-quả của văn-chương.
Tiết thứ
VI.
— Luận về văn-chương đời thượng cổ.
Tiết thứ
VII.
— Luận về văn-chương đời trung cổ.
Tiết thứ
VIII.
— Luận về văn-chương cận thời.
Đây là hãy tạm giàn giá như vậy, nếu sau này nghĩ ra có sót điều gì, có lẽ cùng còn gia giảm, song đại ý chẳng qua cũng thế mà thôi.
Ôi! khoa văn-chương là một khoa-học rất cao, việc khảo cứu là một việc rất khó, ký-giả tài sơ học thiển, đâu dám khoe khoang ngòi bút để mua thêm một trò cười cho các nhà đại phương. Song đương buổi này là buổi giao-thời của tân cựu học giới, mai sau này tân học thịnh hành e có khi cái văn-chương cựu thời cũng phải tiêu-diệt. Văn-chương ta tức là quốc-túy từ mấy nghìn năm của ta, nếu để một mai theo cái tân trào mà tiêu-diệt đi mất thì chẳng khá tiếc lắm ru? Bởi vậy, ký-giả không tự lượng cái sức nhỏ mọn, mà dám cả gan nghị luận đến đề mục to tát ấy, thực là một tấm lòng bất đắc dĩ vậy.
Imprimerie TRINH-VAN-BICH 38-40, Rue des Bambous HANOI-Août 1938
Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng ở Hoa Kỳ vì nó được phát hành lần đầu tiên ở bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ (và không được phát hành ở Hoa Kỳ trong vòng 30 ngày) và nó được phát hành lần đầu tiên trước 1989 mà không tuân thủ các thủ tục bản quyền của Hoa Kỳ (gia hạn và/hoặc thông báo bản quyền) và nó thuộc phạm vi công cộng ở quốc gia gốc vào ngày URAA (1 tháng 1 năm 1996 đối với đa số quốc gia, đối với Việt Nam là ngày 23 tháng 12 năm 1998).