Bước tới nội dung

Việt Nam phong tục/III.14

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

XIV.— KHOA CỬ

Nước ta từ đời nhà Lý, mới có khoa cử. Xét trong Sử-ký: năm Thái-bình thứ tư đời vua Thánh-Tôn (1075), mới bắt đầu mở khoa thi ba kỳ, kén lấy người minh kinh bác học. Sau lại mở ra khoa văn khoa. Đến thời vua Anh-Tôn mở khoa thi thái-học-sinh, hỏi việc chính trị, ai đỗ thì dùng làm quan; vua Nhân-Tôn mở khoa lại điển, thi hành luật thư toán, ai đỗ thì bổ làm ty thuộc.

Qua sang nhà Trần, năm Thiên-ứng-chính-bình thứ tư đời vua Thái-Tôn (1232), thi thái-học-sinh mới chia ra làm 3 hạng, gọi là nhất giáp, nhị giáp, tam giáp, năm thứ 16 (1244) lại định lệ nhất giáp chia làm 3 bậc: bậc thứ nhất là Trạng nguyên, bậc thứ nhì là Bảng-nhỡn, bậc thứ ba là Thám hoa. Người xứ Bắc kỳ đỗ đầu thì gọi là Kinh-trạng nguyên, người Thanh, Nghệ đỗ đầu thì gọi là Trại-trạng-nguyên.

Đến năm Hưng Long thứ 12 đời vua Anh-Tôn (1311) đổi phép thi lại mà chia làm bốn kỳ: kỳ thứ nhất ám tả, kỳ thứ nhì thi kinh nghĩa thơ phú, kỳ thứ ba thi chiếu biểu, kỳ thứ tư thi văn sách.

Năm Long-Khánh thứ hai đời vua Duệ-Tôn (1370), đổi tên Thái-học-sinh gọi là Tiến-sĩ. Trạng-nguyên, Bảng-nhỡn, Thám-hoa, Hoàng-giáp thì gọi là tiến-sĩ cập đệ, còn dưới nữa thì gọi là tiến sĩ đồng cập đệ. Lại mở ra khoa thi hương, ai đỗ thì gọi là Cử-nhân. Đỗ cử nhân mới được dự thi hội.

Qua sang nhà lê, năm Thiệu-Bình thứ sáu đời vua Thái-Tôn (1438) đổi lại phép thi, cứ ba năm mở một khóa. Thi hương rồi thì thi hội, thi đình, ai đỗ đình mới định hơn kém mà chia làm tam giáp. Năm Đại-Bảo thứ ba, mới bắt đầu khắc bia tiến sĩ mà dựng trong nhà Thái-học (tức ở đền Giám bây giờ). Năm Quang-Thuận thứ 7 đời vua Thánh-Tôn (1467), mới định lệ đỗ tiến sĩ được truyền loa và được vinh qui; năm Hồng-Đức thứ hai mươi bốn (1486) thì định lệ ban yến cho tiến sĩ và ban thưởng áo mũ. Bây giờ đỗ tiến-sĩ thực là vinh dự vô cùng. Còn thi hương chia làm hai hạng, ai đỗ hạng cao gọi là hương cống, đỗ hạng tháp gọi là sinh đồ.


Cách thức thi hương bản triều.

Quốc triều ta, từ năm Minh-Mệnh thứ sáu, định lệ cứ năm Tí, Ngọ, Mẹo, Dậu thì mở khoa thi hương. Thừa-thiên, Gia-định, Nghệ-an thi về tháng bảy, Thanh-hóa, Nam-định, Bắc thành (Hànội) thi về tháng chín.

Năm Đồng Khánh nguyên niên thì tràng Hànội, tràng Nam-Định họp lại làm một mà gọi là tràng Hà-Nam.

Đại để phép thi của ta, cứ năm nào đến khoa thi thì quan Đốc học các tỉnh phải sát hạch học trò, ai đỗ hạch mới được đi thi. Gần đến tháng thi học trò đỗ hạch và những tú, ấm phải nộp quyển trước cho quan Đốc học bản hạt mỗi người nộp ba quyển, mỗi quyển độ một, hai chục tờ, đóng bằng giấy thi, mặt quyển đề họ, tên, niên canh, quán chỉ và phải khai họ tên, nghề nghiệp tổ phụ tam đại nhà mình. Quan Đốc sai lễ sinh thâu quyển rồi đóng hòm tử tế, làm danh sách, đợi đến ngày thi thì đem nộp cho quan trường.

Quan trường thì do tự bộ cử ra một ông Chánh chủ khảo, một ông phó chủ khảo, còn mấy ông giám khảo, đề điệu, phân khảo, giám sát, phúc khảo, sơ khảo thì tùy tràng to nhỏ mà cử nhiều hoặc ít. Chánh, phó chủ khảo giữ quyền ra đầu bài, chấm quyển lần sau cùng và lấy người đỗ. Phân khảo có quyền xét lại những quyển hỏng. Giám, sơ, phúc thì chỉ được phép chấm quyển ba lần trước mà thôi. Đề-điệu, giám sát thì coi về việc giữ quyển và kiểm xét sự gian-phi của quan trường và của học trò. Lại phải vài chục người lại-phòng để coi nhận quyển, làm sổ sách, viết bảng, v.v...

Trước hôm thi vài ngày, các quan trường vào tràng thi gọi là ngày tiến trường. Tiến trường rồi thì bốn mặt trường có lính canh giữ nghiêm cẩn, cấm không ai được tự nhiên ra vào nữa.

Hôm học trò vào trường thì chia làm bốn vị hoặc tám vị, mỗi vị có một cửa, ai vào cửa nào, quan trường phải yết bảng trước cho học trò biết.

Học trò mỗi người vác một bộ lều chiếu, cổ đeo ống quyển, bầu nước, vai đeo một cái tráp chứa đồ ăn thức dùng, phải chực sẵn ở ngoài cửa trường từ đêm.

Tan ba hồi trống thì quan sở trường chia nhau, mỗi ông võng lọng ra một cửa: quan chánh ra cửa giáp, quan phó ra cửa ất, quan phân, quan giám ra 2 cửa tả hữu, mỗi cửa đốt 2 cây đình liệu sáng rực trời, quan trường áo mũ đai mãn ngồi trên ghế chéo, sai lại phòng xướng danh giao quyển cho học trò vào trường.

Học trò vào đông đủ đóng lều đâu đấy, sáng rõ thì có đầu bài. Học trò phải tĩnh túc mà làm văn. Đến trưa phải đem quyển vào nhà thập đạo lấy dấu nhật trung. Tối làm văn xong thì nộp quyển. Bấy giờ quan trường hội ở nhà thập đạo, học trò nộp quyển rồi thì cứ do cửa tiền mà ra.

Kỳ đệ nhất thi bảy bài kinh nghĩa, ai muốn làm mấy bài cũng được, nhưng ít nhất cũng phải làm một bài kinh và một bài truyện. Kỳ đệ nhị một bài thơ thất ngôn và một bài phú độ sáu, bảy vần. Kỳ đệ tam một bài văn sách, hỏi độ năm, sáu câu cổ và một câu kim. Ai đậu kỳ thứ nhất mới được vào kỳ thứ nhì, đậu kỳ thứ nhì mới được vào kỳ thứ ba. Trong ba kỳ đều thông cả, ai có ưu, bình thì mới được dự vào kỳ phúc hạch. Mỗi kỳ vào đều có bảng yết ngoài cửa trường. Người được vào phúc hạch, phải nộp thêm một quyển để hôm sau vào trường.

Kỳ phúc hạch phải làm bài kinh nghĩa, bài phú độ hai, ba vần và một, hai câu văn sách, gọi là lược bị. Quan trường soát cả trong bốn kỳ, rồi phân thứ bậc mà lấy người đỗ, văn tốt lấy lên hạng cử nhân, văn tầm thường lấy vào hạng tú tài.

Đến hôm treo bảng, xướng hồi danh thì các quan trường áo mũ cân đai ngồi sắp hàng trên ghế chéo ở trước cửa tiền, cho lính truyền loa mà xướng từng tên người đỗ cử nhân vào ngồi sắp dãy trước nhà thập đạo, rồi ban thưởng cho mỗi ông tân khoa một bộ áo mũ, một cái lọng xanh. Các tân khoa lãnh áo mũ rồi theo cả các quan trường đến đền kính thiên bái mạng, nghĩa là lạy tạ ơn vua. Đoạn rồi theo các quan về dinh quan tỉnh ăn yến. Hôm sau các tân khoa lại rủ nhau đi tham yết các quan tỉnh. Quan tỉnh hoặc thưởng riêng cho các tân khoa thức gì, hoặc quan trên diễn thuyết một bài khuyên các tân khoa. Các việc đó tùy ý quan trên, không có lệ nào.

Trong khi ăn yến, các tân khoa trao lẫn cho nhau mỗi người một cánh danh thiếp, nghĩa là trong hội đồng canh, thông tính danh cho được biết nhau. Ông đỗ thủ khoa phải tặng chung cả bạn đồng canh một bài thơ, trong thơ thì đại để bài nào cũng kể lể sự vinh hạnh rồi kết ý khuyên nhau phải giữ trung nghĩa để báo đáp ơn cao sâu của nhà vua.


Cách thức thi hội bản triều.

Năm Minh-Mệnh thứ sáu, định lệ cứ năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì mở khoa thi hội, và thi về tháng ba.

Thi hội, có một chánh chủ khảo, một phó chủ khảo, hai tri-cống-cử, hai đề-điệu, sáu đồng khảo, để coi việc ra đầu bài, chấm quyển, vài bốn tuần sát để coi việc giữ gian; và bốn mươi thơ lại để coi việc sổ sách, viết quyển viết bảng, v.v...

Các cử nhân giám sinh, giáo thụ, huấn đạo, và tú tài ấm sinh tình nguyện ứng thí, đều được phép đi thi hội.

Thi hội chia làm bốn kỳ: kỳ đệ nhất ít ra phải làm bài kinh nghĩa; kỳ đệ nhị chiếu, biểu, luận; kỳ đệ tam một bài thơ ngũ ngôn mười sáu câu, một bài phú độ tám vần; kỳ đệ tứ một bài văn sách. Trong hai kỳ phải một kỳ bất cập phân thì hỏng: trong bốn kỳ được tám phân trở lên mới là trúng cách.

Hội thi trúng cách rồi mới được vào đình thí. Đình thí chỉ đối sách một bài rất dài. Quan trường hội đồng xét văn rồi dưng lên Ngự lãm, quyển nào nhiều phân số lấy vào hạng tiến sĩ, còn ít phân số thì cho vào hạng phó bảng.

Ngày xướng danh gọi là ngày truyền lô. Hôm đó, bầy nghi vệ đại triều ở đền Thái hòa, các quan mặc đồ triều phục chia ban đứng chầu, phụng Hoàng thượng ra ngự điện, rồi quan Khâm mạng tâu lại việc thi, quan Giám thị thì triệu các tân khoa tiến sĩ vào nhà công văn, phụng mệnh vua mà ban thưởng mỗi người một bộ áo mũ. Các tiến sĩ quì lãnh rồi, quan Lễ bộ dẫn vào quì sắp hàng trước sân rồng, rồi quan truyền lô cầm sổ theo thứ tự mà xướng danh. Đâu đấy mới treo bảng ở trước lầu phú văn ba ngày.

Sau khi ra bảng, ban ăn yến tại dinh Lễ bộ và ban cho mỗi người một cành kim trâm. Sáng hôm ấy, các quan trường và các tân khoa tiến sĩ mặc đồ triều phục, lễ vọng tạ ơn ban yến. Ăn yến đoạn mỗi ông tân khoa phải dưng một bài biểu tạ ơn.

Quan Lễ bộ lại dẫn các quan Giám thị và các ông tân khoa vào vườn Ngự-uyển xem hoa, mỗi người đều mặc đồ triều phục, cưỡi ngựa che lọng, xem hoa xong thì ra từ cửa thành đông mà đi xem các phố xá.

Còn dựng bia thì cũng theo như cách nhà Lê.

Năm Thành Thái thứ mười tám (1906), nhà nước bảo hộ nghị định cải lương lại phép học phép thi, thì từ khảo hạch cho đến thi hương, thi hội đều có thay đổi ít nhiều. Thi hương kỳ thứ nhất bỏ kinh nghĩa, mà làm năm đạo văn sách; kỳ thứ nhì làm hai bài luận chữ nho, kỳ thứ ba làm một bài luận quốc ngữ và dịch một bài chữ Pháp ra quốc ngữ; kỳ phúc hạch làm văn lược bị, nghĩa là đủ các văn thể ba kỳ trước mà mỗi bài làm ít câu mà thôi. Phép thi hội cũng còn tương tự như phép thi hương, đợi khi nào lối tân học thịnh hành, sẽ lại cải định.

Mỗi khoa thi có quán Toàn quyền hoặc quan Thống sứ vào trường diễn thuyết một bài để khuyên học trò. Còn cách thức ban ơn cho tiến sĩ, cử nhân thì vẫn như trước.

*

* *

Xưa nay lối khoa cử của ta là một con đường rộng rãi phẳng phiu cho bọn sĩ phu. Sĩ phu có do con đường ấy xuất thân mới là chính đồ, mà sự vinh hạnh về sau cũng bởi đó mà ra cả. Bởi vậy nhân tâm nước mình say mê bia đá bảng vàng, cố sức mà giùi mài truyện hiền kinh thánh, có người đầu bạc mà vẫn chịu khó đeo bộ lều chiếu để đua ganh với bọn thiếu niên. Mà rút lại thì có gì đâu, học cũng chẳng qua là học văn chương, thi cũng chẳng qua là thi văn chương. Ai may ra hiển đạt, cũng phải nhờ có tài trí riêng mới chuyển vận được việc đời, chớ như chuyên một lối văn chương, có mấy khi mà nên được việc. Vậy mà ta mê mẩn mấy trăm năm nay, vẫn chưa tỉnh hết.

Nhà nước gần đây, cải lương lại phép thi, bỏ bớt lối hư văn, mà thay dần lấy lối thực học. Hiềm vì cách tân học chưa được thịnh hành mà tục cựu nhiễm của ta thì chưa gột hết cho nên cách thi cử cũng chưa theo ngay được lối văn minh. Thiết tưởng làm sao cũng phải có một phen đổi hết cách cũ mà dùng toàn cách mới thì mới có ngày mong đến được cõi tấn hóa. Xem như các nước bên Á đông ta, như nước Tàu, nước Nhật, trước cũng thi cử như ta, mà họ bỏ đi đã lâu rồi. Duy ta còn khăng khăng giữ mãi, không biết bao giờ mới đổi được.