Bước tới nội dung

Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần V/Chương IV

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG IV

HIẾN-TỔ (1841 - 1847)

Niên-hiệu: Thiệu-trị 紹 治

  1. Đức-độ vua Hiến-tổ
  2. Việc Chân-lạp
  3. Việc Tiêm-la
  4. Việc giao-thiệp với nước Pháp

1. ĐỨC-ĐỘ VUA HIẾN-TỔ. Tháng giêng năm tân-sửu (1841) Hoàng-thái-tử húy là Miên-tông 綿 宗 lên ngôi ở điện Thái-hòa đặt niên-hiệu là Thiệu-trị.

Tính vua Hiến-tổ thuần-hòa, không hay bày ra nhiều việc và cũng không được quả cảm như Thánh-tổ. Trong đời Ngài làm vua, học-hiệu, chế-độ, thuế-má, điều gì cũng theo như triều vua Thánh-tổ cả. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương đăng Quế 張 登 桂, Lê văn Đức 黎 文 德, Doãn Uẩn 尹 蘊, Võ văn Giải 武 文 解, Nguyễn tri Phương 阮 知 方, Lâm duy Tiếp 林 維 浹 trong ngoài ra sức giúp rập. Nhưng mà đất Nam-kỳ có giặc-giã, dân Chân-lạp nổi loạn, quân Tiêm-la sang đánh phá, nhà vua phải dùng binh đánh-dẹp mãi mới xong.

2. VIỆC CHÂN-LẠP. Nguyên từ cuối đời đức Thánh-tổ, đất Nam-kỳ và đất Chân-lạp đã có giặc-giã, các ông Trương minh Giảng, Nguyễn tiến Lâm, Lê văn Đức, Nguyễn công Trứ cứ phải đem quân đi tiễu-trừ mãi, đánh được chỗ này thì chỗ kia nổi lên. Sau ở Nam-kỳ lại có Lâm Sâm 林 森 cùng với bọn thầy chùa làm loạn ở Trà-vinh; ở Chân-lạp thì những người bản xứ cùng với người Tiêm-la đánh phá. Quan quân chống không nổi. Triều-đình lấy việc ấy làm lo phiền. Năm Thiệu-trị nguyên-niên (1841), ở trong Triều, ông Tạ quang Cự tâu xin bỏ đất Chân-lạp, rút quân về giữ An-giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền cho tướng-quân là Trương minh Giảng rút quân về. Trương minh Giảng về đến An-giang thì mất. Bởi vì việc kinh-lý đất Chân-lạp là ở tay ông cả, nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn-tây mà về, ông nghĩ xấu-hổ và buồn-bực đến nỗi thành bệnh mà chết.

3. VIỆC TIÊM-LA. Khi quân của Nguyễn tiến Lâm và Nguyễn công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam-kỳ, thì quân Tiêm-la lại đem binh-thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê văn Đức làm tổng-thống đem binh-tướng đi tiễu-trừ. Sai Nguyễn tri Phương và Nguyễn tiến Lâm giữ mặt Tiền-giang, Nguyễn công Trứ và Nguyễn công Nhân giữ mặt Vĩnh-tế, Phạm văn Điển và Nguyễn văn Nhân giữ mặt Hậu-giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn-tây. Quan quân đuổi được quân Tiêm-la ra ngoài bờ-cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm-yếu để đợi ngày tiến tiễu.

Nguyên là Nặc ông Đôn[1] đem quân Tiêm-la về cứu viện để đánh lấy lại nước. Nhưng đến khi Việt-nam rút về rồi, quân Tiêm-la tàn-bạo, người Chân-lạp lại không phục, có người sang cầu cứu ở Nam-kỳ, vua bèn sai Võ văn Giải sang kinh-lý việc Chân-lạp.

Tháng sáu năm ất-tị (1845), là năm Thiệu-trị thứ năm, Võ văn Giải vào đến Gia-định, cùng với Nguyễn tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân-lạp, phá được đồn Dây-sắt, lấy lại thành Nam-vang, người Chân-lạp về hàng kể hơn 23.000 người.

Đoạn rồi, Nguyễn tri Phương và Doãn Uẩn đem binh đuổi đánh quân Tiêm-la và quân Chân-lạp, vây Nặc ông Đôn và tướng Tiêm-la là Chất-Tri ở Ô-đông (Oudon).

Tháng chín năm ấy, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng mười thì Nguyễn tri Phương, Doãn Uẩn và Chất Tri ký tờ hòa-ước ở nhà hội-quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn tri Phương rút quân về đóng ở Trấn-tây, đợi quân Tiêm thi-hành những điều ước đã định.

Tháng chạp năm bính-ngọ (1846), Nặc ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm-vật sang triều-cống.

Tháng hai năm đinh-vị (1847) là năm Thiệu-trị thứ bảy, Triều-đình phong cho Nặc ông Đôn làm Cao-miên quốc-vương và phong cho Mỹ-lâm quận-chúa làm Cao-miên quận-chúa. Lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn-tây rút về An-giang.

Từ đó nước Chân-lạp lại có vua, và việc ở phía nam mới được yên vậy.

4. VIỆC GIAO-THIỆP VỚI NƯỚC PHÁP. Từ khi vua Hiến-tổ lên trị-vì, thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít. Nhưng mà triều-đình vẫn ghét đạo, mà những giáo-sĩ ngoại quốc vẫn còn giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung-tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà-nẵng xin cho năm người giáo-sĩ được tha.

Qua năm ất-tị (1845) là năm Thiệu-trị thứ năm có một giám-mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bấy giờ có người quản tàu Mỹ-lợi-kiên ở Đà-nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu-tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu-tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào Đà-nẵng lĩnh giám-mục ra.

Năm đinh-vị (1847) quan nước Pháp được tin rằng ở Huế không còn giáo-sĩ phải giam nữa, mới sai đại-tá De Lapierre và trung-tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà-nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.

Lúc hai bên còn đang thương-nghị về việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng gần tàu của Pháp, và ở trên bờ lại thấy có quân ta sắp-sửa đồn lũy, mới nghi có sự phản-trắc gì chăng, bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.

Vua Hiến-tổ thấy sự-trạng như thế, tức-giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại-quốc vào giảng đạo, và trị tội những người trong nước đi theo đạo.

Việc tàu nước Pháp vào bắn ở Đà-nẵng xong được mấy tháng, thì vua Hiến-tổ phải bệnh mất. Bấy giờ là tháng chín năm đinh-vị (1847), năm Thiệu-trị thứ bảy. Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37 tuổi, miếu-hiệu là Hiến-tổ Chương-hoàng-đế 憲 祖 章 皇 帝.

  1. Nặc ông Đôn là em Nặc ông Chân, chú nàng Ang-mey là Ngọc Vân quận-chúa.