Việt thi/III-12

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

NGUYỄN BỈNH-KHIÊM

2. Thú nhàn

Lẩn-thẩn ngày qua lại tháng qua,
Một năm xuân tới một phen già.
Ái-ưu vằng-vặc trăng in nước,
Danh-lợi dửng-dưng gió thổi hoa.
Án sách hãy còn án sách cũ,
Nước non bạn với nước non nhà.

3. Lòng vô sự

Trải nguy-nan đã mấy phen,
Thân nhàn, phúc lại được về nhàn.
Niềm xưa trung-ái thề chẳng phụ,
Cảnh cũ điền-viên thú đã quen.
Ba quyển đồ-thư thu nặng túi,
Một thuyền phong-nguyệt chở đầy then.
Trời cũng biết nơi lành dữ,
Họa phúc chẳng dung cái tóc chen.

CHÚ-THÍCH.— Chở đầy then, tiếng then đây nghĩa là khoang thuyền.

4. Tri túc

Giàu cơm thịt, khó cơm rau,
An phận là tiên, lọ phải cầu.
Sớm uống chè thung, hơi ngút-ngút,
Hôm kề hiên nguyệt, tỏ làu làu.
Vun thông tưới cúc ba thằng nhỏ,
Đỏ lửa hâm trà một mụ hầu.

5. Ẩn-dật

Một cơ yêu nhọc đổi lại đều,
Yêu bao nhiêu, thì nhọc bấy nhiêu.

Tham, phải áng công-danh lụy,
Muốn, cho con tạo-hóa trêu.
Vui-vầy Lạc-xã năm ba khách,
Lánh chốn Nam-dương ở một lều.

6. Tự tiêu-dao

Xóm tự-nhiên, lều một căn,
Quét không thảy thảy bụi hồng-trần.
Nghìn hàng cam quất, con đòi cũ,
Mấy đứa ngư-tiều, bộ bạn thân.
Thấy nguyệt tròn thì kể tháng,
Nhìn hoa nở mới hay xuân.

7. Giữ đạo thường

Chợ họp thì người đến dở-dang,
Xạ yêu vì có mùi hương.
Ưa ngọt thì hơn nhiều người trọng,
Quá chua ra ủng có ai màng.
Ở có đức lành hơn ở dữ,
Yêu nhau chẳng đã một đạo thường.

8. Không vướng danh-lợi

Tiêu xái tự-nhiên ắt nhẹ mình,
Nài bao quyền cả áng công-danh.
Vô tâm ước có gương soi bạc,
Đắc thú kho đầy gió mát thanh.
Trẻ dẫu biết cơ tạo-hóa,
Già lo phục thuốc trường sinh.

9. Lòng thản-nhiên

Vinh nhục bao phen hẳn đã từng,
Lòng người sự thế dửng dưng.
Khen thì nên tốt, chê nên dại,

Mất ắt chẳng âu, được chẳng mừng.
Có ai biết được lòng tri-kỷ,
Vòi-vọi non cao nguyệt một vừng.

10. Tài tri mà chi

Mặc ai rằng trí, mặc rằng tài,
Ngay mặt đã hay đống củ khoai.
Cáo đội oai hùm mà nết giống,
Ruồi nương đuôi ký luống khoe người.
Nhân tình cho biết,
Ba bát đầy, này cũng sáu vơi,

CHÚ-THÍCH.— Ký là con ngựa tốt, đuôi ký là đuôi ngựa.

11. Nhẹ đường danh-lợi

Được thua thấy đã ít nhiều phen,
Để rẻ công-danh đổi lấy nhàn.
Am Bạch-vân rồi nhàn hứng,
Dặm hồng-trần vắng ngại chen.
Ngày chầy họp mặt, hoa là khách,
Đêm vắng hay lòng, nguyệt ấy đèn.
Chớ chớ thờ-ơ nhìn mới biết,
Đỏ thì son đỏ, mực thì đen.

12. Tự-thuật

Tuổi già ngoài tám-mươi già,
Thấm-thoắt xem bằng bóng ngựa qua.
Mai bạc lạnh quen nhiều tháng tuyết,
Cúc vàng thêm đổi mấy phen hoa.
Dẫu có phận là ơn chúa,
Được làm người bởi đức cha.
Am quán ngày nhàn rồi mọi việc
Dầu ta tự tại mặc dầu ta.

13. Nhẫn là hơn

Chưa dễ ai là bựt Thích-ca,
Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua.
Lòng vô sự trăng in nước,
Của thảng lai gió thổi hoa.
Kìa khách xuân-xanh khi trẻ,
Mấy người đầu bạc tuổi già.
Thanh-nhàn ấy ắt là tiên khách,
Được thú ta đà có thú ta.

14. Nhàn vi quí

Giàu mặc phận, khó đâu bì,
Đọ thanh nhàn khá nhất nhì.
Vếu-váo câu thơ cũ rích,
Khề-khà chén rượu hăng xì.
Trăng thanh gió mát là tương thức,
Nước biếc non xanh ấy cố tri.
Sự thế đôi co, dầu sự thế,
Dũ không thảy thảy chẳng hề chi.

15. Dưỡng thân

Mới phú-quí bởi thời vần,
Tu niệm ngang-tàng thú dưỡng thân.
Hứng ý miệng ngâm câu quốc-ngữ,
Giải phiền tay chuốc chén quỳnh-xuân.
Đường hoa chào khách mặt nhìn mặt,
Ngõ hạnh đưa người chân ngại chân.
Dẫu có ai than thì sẽ nhủ,
Thái-bình thiên-tử, thái-bình dân.