Bước tới nội dung

Việt thi/III-33

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒ XUÂN-HƯƠNG

30. VỊNH CÁI QUẠT

I

Một lỗ xâu, xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính-dáng tự ngày xưa,

Vành ra ba góc, da còn thiếu,
Khép lại đôi bên, thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh-hùng khi tắt gió.
Che đầu quân-tử lúc sa mưa.
Nâng-niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì-phạch, trong lòng đã chán chưa?

II

Mười-bảy hay là mười-tám đây?
Cho ta yêu-dấu chẳng rời tay.
Mỏng dày chừng ấy thành ba góc,
Rộng hẹp dường nào cắm một cay.
Càng nóng bao nhiêu thì càng mát,
Yêu đêm chưa phỉ, lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.

CHÚ-THÍCH.— Mười-bảy mười-tám là nói số nan, nhưng đây có ý nói người mười-bảy hai mười tám tuổi.— Cay là cái nhài quạt,— Cậy là cây cậy, người ta dừng trái nó để phất quạt.

31. DỆT CỬI

Thắp ngọn đèn lên, thấy trắng phau,
Con cò mấp-máy suốt đêm thâu.
Hai chân đạp xuống nâng nâng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau,
Rộng hẹp nhỏ to vừa-vặn cả,
Ngắn dài khuôn-khổ vẫn như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,
Chờ đến ba thu mới dãi màu,

32. CÂY ĐU

Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ đứng trông.

Trai co gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp-phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.

33. TRỐNG THỦNG

Của em bưng bít vẫn bùi-ngùi,
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.
Ngày vắng đập tung năm bảy chiếc,
Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi.
Khi dang thẳng cánh, bù khi cúi,
Chiến đứng không thôi, lại chiến ngồi.
Nhắn-nhủ ai về thương lấy với,
Thịt da đâu cũng thế mà thôi.

34. TRĂNG THU

Một trái trăng thu chín mõm-mòm,
Nảy vầng quế đỏ đỏ lòm-lom.
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói-móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom-khom.
Hỡi người bẻ quế, rằng ai đó,
Đó có Hằng-nga ghé mắt dòm.

35. KHÔNG CHỒNG MÀ CHỬA

Cả nể cho nên sự dở-dang,
Nỗi-niềm chàng có biết chăng chàng?
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.

Cái nghĩa trăm năm chàng chịu gánh,
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có mới ngoan.

36. LẤY CHỒNG CHUNG

Kẻ đắp chăn chung, kẻ lạnh-lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Nỗi này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.

37. VỊNH TRANH TỐ-NỮ

Hỏi bao nhiêu tuổi, hỡi cô mình,
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân-xanh.
Phiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ-liễu thôi đành phận mỏng-manh.
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ?
Trách người thợ vẽ khéo vô tình.

38. THƠ GIẾNG

Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thảnh-thơi giếng lạ-lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo-lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún-phún leo quanh mép,
Cá diếc le-te lách giữa dòng,

Giếng ấy thanh khơi ai đã biết,
Đố ai dám thả nạ đòng đòng.

39. TỰ TÌNH

Tiếng gà văng-vẳng gáy trên bom,
Oán-hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rầu-rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài-tử văn-nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom.

40. CHƠI HANG THÁNH-HÓA Ở SÀI-SƠN

Khen thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố giương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo sờ rậm-rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam-nham,
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Đến mới biết rằng hang Thánh-hóa.
Chồn chân mỏi gối hãy còn ham.

41. QUA KẼM-TRỐNG

Hai bên thì núi giữa thì sông,
Có phải đây là Kẽm-trống không?
Gió đập cành cây khua lắc-cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long-bong.
Ở trong hang đá hơi còn hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại.
Nào ai có biết nỗi bưng-bồng.

42. HANG CẮC-CỚ

Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm-hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ hoen-hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập-phòm.
Giọt nước hữu tình rơi bõm-bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc,
Khéo hớ-hênh ra lắm kẻ dòm.

43. CHƠI CHÙA HƯƠNG

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm-hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu Tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh-thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom-khom.
Lâm-tuyền quyến cả phồn-hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở-dom!

44. QUA SÔNG PHỤ SÓNG

Chú lái kia ơi, biết chú rồi,
Qua sông rồi lại đấm ngay bòi.
Chèo ghe vừa khỏi dòng sông ngược,
Đấm cặc ngay vào ngấn nước xuôi.
Mới biết lên bờ đà vỗ đít,
Nào khi giữa khúc phải so vòi.
Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ?
Sang nữa hay là một chuyến thôi.

45. NỖI RIÊNG

Chiếc bách buồn vì phận nổi-nênh,
Giữa dòng ngao-ngán nỗi lênh-đênh.

Lưng khoang tình nghĩa dường lai-láng,
Nửa mạn phong-ba luống bập-bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Giong lèo thấy kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ay ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp-tênh.

46. CHẾ SƯ

Chẳng phải ngô mà chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt năm ba phẩm,
Vãi mập sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chụm-choẹ,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi-ha.
Tu lâu có lẽ lên sư cụ,
Ngất-nghểu tòa sen nọ đó mà.