Việt thi/III-89
NGUYỄN KHUYẾN
39. ÔNG PHỖNG-ĐÁ
Ông đứng làm chi đấy hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Giữ-gìn non nước cho ai đó?
Dâu bể cuộc đời có biết không?
CHÚ-THÍCH.— Hai câu cuối có bản chép là:
Đêm ngày gìn-giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không.
40. TRỜI NÓI
Chót-vót trên này có mặt tao,
Nào tao có muốn nói đâu nào.
Mặt tao lốm-đốm xanh đen trắng,
Bởi tại dì Oa thổi bệ rào.
CHÚ-THÍCH.— Dì Oa là theo điển nói bà Nữ Oa rèn đá vá trời. — Bệ rào là bệ thợ rèn.
41. ĐỀ HAI ÔNG TƯỢNG Ở CỬA ĐỀN
Hai ông đứng đó đã bao lâu,
Sung-sướng chi mà chửa bạc đầu.
Thế-thái nhân-tình là thế thế,
Thế mà giương mắt đứng trông nhau.
42. HỎI ÔNG TƯỢNG ĐẤT
Ông đứng trông đời sướng thế ông?
Tơ vương chẳng động chút hơi đồng.
Quê nhà vốn cũng nòi dòng thổ,
Khéo nặn thì nên, chả lẽ không.
43. HỎI ĐÁ
Bao nả giang-sơn một gánh tròn,
Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn.
Biết chăng chỉ có ông Hà-bá,
Mỉm mép cười thầm với nước non.
44. CHỪA RƯỢU
Những lúc say-sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa nên nỗi không chừa được,
Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.