Việt thi/III-91

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

TRẦN KẾ-XƯƠNG

46. TIẾNG ÔNG CỬ ★

Thứ năm ông Cử ai làm nổi,
Học-trò quan Đốc ở Hà-nội.
Nghe tin, bà cố cười khì-khì,
Đổ cả riêu cua xuống vũng lội.

47. CHẾ ÔNG CỬ ★

Thứ năm ông Cử ấy là ai,
Học-trò quan Đốc Tả Thanh-oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha-hả,
Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai.

48. CHẾ QUAN ĐỐC

Ông về Đốc-học đã bao lâu,
Cờ bạc rong chơi rặt một màu.
Học-trò chúng nó tội gì thế,
Đến để cho ông vớ được đầu.

49. CHÚC TẾT

I

Lẳng-lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên-hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

II

Lẳng-lặng mà nghe nó chúc giàu,
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu.
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu,

III

Lẳng-lặng mà nghe nó chúc sang,
Đứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

IV

Lẳng-lặng mà nghe nó chúc con,
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố-phường chật hẹp người đông-đúc,
Bồng-bế nhau lên nó ở non.

50. CHIÊM BAO

I

Bỗng thấy chiêm-bao thấy những người,
Thấy người nói nói lại cười cười.

Tỉnh ra lại tiếc người trong mộng,
Mộng thế thì bằng tỉnh mấy mươi.

II

Nằm nghe tiếng trống trống canh ba,
Vừa giấc chiêm-bao chợt tỉnh ra,
Thiên-hạ có khi đương ngủ cả,
Việc gì mà thức một mình ta.

51. BỌN HÁT TUỒNG

Nào có ra chi lũ hát tuồng.
Cũng hò, cũng hét, cũng y-uông.
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ,
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn.

52. ANH VÔ NGHỆ

Trời đất sinh ra chán vạn nghề,
Làm thầy, làm thợ với làm thuê.
Bác này mời thực thái vô ích,
Sáng vác ô đi, tối vác về.

53. TIẾN-SĨ GIẤY

Ông đỗ khoa nào, ở xứ nào?
Thế mà hoa hốt với trâm bào.
Một năm một tiết trung-thu đến,
Tôi vẫn quen ông, chẳng muốn chào.

54. CHÚC NĂM MỚI

Bắt-chước ai, ta chúc mấy lời,
Chúc cho khắp hết cả trong đời,
Vua quan sĩ thứ người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người.

55. RỦ CHƠI XUÂN

Xuân sang rồi đấy chị em ơi,
Sắm-sửa chơi xuân kẻo nữa hoài.
Chín chục thiều-quang nào có mấy,
Kìa trông con én nó đưa thoi.

56. ĐỌC SÁCH ĐÊM XUÂN

Một ngọn đèn xanh sách mấy chồng,
Cười xuân hoa thắm một vài bông.
Xiết bao ý-vị bao tình-tứ.
Ngâm đọc thâu đêm dưới bóng lồng.

57. HỎI XUÂN

Ta lại cùng nhau gặp-gỡ xuân,
Xuân đi xuân lại biết bao lần.
Xuân ơi ta hỏi xuân xem nhé,
Quả đất còn bao độ chuyển vần.

58. THƯỞNG XUÂN

Người thưởng xuân, ta có lẽ không,
Vườn xuân ta hái một vài bông.
Đem về thư-viện bên chồng sách,
Hớn-hở cười xuân với hóa-công.

59. DẠ HOÀI

Kìa cái đêm này mới gọi đêm,
Mắt giương, trong bụng ngủ không thèm.
Tình này ai tỏ cho ta nhỉ?
Tâm-sự năm canh một ngọn đèn.

60. MUỐN TỚI BỒNG-LAI

Những là nay ước lại mai ao,
Muốn tới thăm hoa chốn động Đào.

E thú nhà tiên còn lạ khách,
Chim xanh khôn tỏ lối ra vào.

61. CHỊ HẰNG

Ta thấy người ta vẫn nói rằng,
Nói rằng thằng Cuội ở trong trăng.
Trứa ai chẳng trứa, trứa thằng Cuội,
Tôi gớm gan cho chị ả Hằng.

62. ĐÊM XUÂN TRỜI MƯA

I

Thánh-thót mưa xuân ướt mái nhà,
Gió đông gọi khách nhớ người xa.
Bể trần lai-láng, triều lên xuống,
Hết đối đèn khuya lại ngắm hoa.

II

Ngắm đóa hoa xuân cũng ghẹo người,
Người sau hoa van một màu tươi.
Hoa tươi như dạng hoa cười khách,
Cười khách sao mà xuân chẳng tươi.

III

Khách bảo cho hoa được biết tường,
Trượng-phu không lẽ giống người thường.
Cùng nhau đã nặng thề non nước,
Xa bạn đồng tâm vậy phải thương.

IV

Muốn tới cùng ai dãi tấm lòng,
Sầu riêng đã gỡ, gỡ cho xong.
Xuân đi xuân lại vô cùng tận,
Có lẽ ta đâu mắc-míu vòng.