Bước tới nội dung

Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta/II

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta của Phan Khôi
II. Cái chơn tướng của Khổng giáo

Theo sự tri thức của nhiều hạng người không đồng nhau, đối với Khổng giáo, người thì hiểu thế này, kẻ thì hiểu thế khác, nên trước khi bàn đến cái ảnh hưởng ở nước ta, tôi phải chỉ rõ cái chơn tướng của nó ra sao.

Khổng giáo có cái chơn tướng của Khổng giáo ; song ở nước ta đây, mỗi người thấy nó ra một khác, cái đó là tùy theo tầm con mắt của từng người.

Có người đàn bà đi tình cờ đạp miếng giấy chữ, liền lật đật hai tay lượm lên mà để qua trên đầu một cái rồi đem đốt đi, nói rằng : Kẻo mang tội với đức thánh. Chẳng những đàn bà, cái hạng nầy nhiều lắm, họ coi chữ tức là ông thánh, ông thánh tức là chữ ; vì họ hiểu lầm rằng ông Khổng Tử đã bày ra chữ Hán và chỉ có bởi chữ Hán thì mới học biết được đạo Khổng Tử.

Một hạng nữa hơi cao hơn hạng kia một chút, họ hiểu rằng hễ là sách chữ nho tức là của ông thánh hết. Chẳng những Luận ngữ, Trung dung là của ông thánh, mà cho đến “Minh tâm bỏ bọc, Ấu học dắt lưng” của mấy ông thầy du phương dạy trẻ, họ cũng cho là của ông thánh. Bao nhiêu những lời nói trong cuốn sách đóng lề bằng chỉ, là lời của Khổng Tử ráo, họ đều tin ráo. Rất đỗi đến những câu chưa hề thấy trong sách, chỉ nghe ở miệng người ta mà hễ là bằng chữ nho, ấy là họ nói lời của ông thánh rồi. Ở Nam kỳ đây, hạng tầm thường, hay lặp đi lặp lại cái câu “Quân sử thần tử, thần bất tử, bất trung ; phụ sử tử vong, tử bất vong, bất hiếu”, họ cho là lời thánh nói ra. Nhiều người đem hỏi tôi, tôi phải lấy làm lạ. Hoặc giả có, mà tôi lâu nay ít hay ôn nhuần lại sách cũ rồi quên đi chăng, chớ theo như cái trí nhớ trong đầu tôi, thì câu nầy chẳng có trong sách nào hết, chẳng ông thánh nào nói hết, mà chừng như là lời của Lê Tử Trình nói trong tuồng Sơn hậu hồi thứ ba ! Đó, một hạng người nữa, cứ ù ù cạc cạc, hễ nghe câu chữ nho, thấy cuốn sách chữ nho, thì cho là đạo Khổng Tử ở đó.

Một hạng cao hơn nữa thì cho Khổng giáo là ở tại cang thường luân lý. Họ nói rằng người An Nam mình biết kính tổ tiên, nhớ ngày ông ngày bà, trong bà con không lấy bậy nhau, ấy là nhờ tin theo Khổng giáo. Phần nhiều người có cầm cuốn sách đi học hay là có thi đỗ ông nọ ông kia, đều nói như vậy. Hạng nầy đã khá, nhưng cũng chỉ thấy Khổng giáo được một phía mà thôi, không thấy cả mọi bề. Tôi còn nhớ hơn 20 năm về trước, ở Trung kỳ bỏ thi, nhiều ông nghè ông cử vì đó mà buồn rầu than tiếc, cho rằng bỏ thi tức là bỏ Khổng giáo. Bỏ thi thì người ta không học chữ nho, không học chữ nho thì ít biết đạo Khổng, cũng có lẽ, song những người ấy họ lại không hiểu như vậy mà hiểu khác, họ hiểu rằng sự thi cử tức là Khổng giáo, bỏ thi cử ấy là bỏ Khổng giáo. Không có gì lạ, họ nhận thi cử là Khổng giáo cũng như nhận cang thường là Khổng giáo đó mà thôi.

Theo cái quan niệm của hai hạng trên đối với Khổng giáo thì thấp quá, không đủ kể ; còn sự sai lầm của hạng sau cùng vừa mới nói đây, ta cũng nên đính chánh lại. Có đính chánh lại những điều sai lầm ấy thì cái chơn tướng của Khổng giáo mới lòi ra.

Về luân lý, Khổng Tử dạy có ngũ luân mà rằng : “Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bầu bạn : năm điều ấy là đạo thông trong thiên hạ vậy”[1]. Có lần ngài đáp lời Tề Cảnh Công hỏi mà nói rằng : “Vua phải đạo vua ; tôi phải đạo tôi ; cha phải đạo cha ; con phải đạo con”[2]. Nơi khác, nói về Văn Vương, ngài nói rằng : “Làm vua người, đỗ ở nhân ; làm tôi người, đỗ ở kính ; làm con người, đỗ ở hiếu ; làm cha người, đỗ ở từ ; giao với người trong nước, đỗ ở tín”[3]. Lại có chỗ ngài đáp lời Định Công hỏi mà rằng : “Vua lấy lễ khiến tôi ; tôi lấy trung thờ vua”[4].

Coi đó thì thấy rằng về ba luân vua tôi, cha con, chồng vợ, Khổng Tử không hề có ý nâng một bên lên, hạ một bên xuống mà khi nào ngài cũng nói một cách đối đãi với nhau. Bên nào ngài cũng buộc cho một cái bổn phận đối với bên kia, chẳng qua bổn phận tùy theo địa vị mà khác. Vậy, đức Khổng Tử chưa hề xướng ra cái thuyết tam cang. Và xét tra các sách từ đời ngài về trước cũng chưa hề có cái thuyết tam cang.

Thuyết tam cang mới bắt đầu có từ nhà Hán, thấy ra trong sách Bạch hổ thông của Hán nho. Sách ấy có nói rằng : “Quân vi thần cang ; phụ vi tử cang ; phu vi thê cang”. Bởi đó người ta gọi là tam cang.

Cang, nghĩa là cái giềng lưới. Theo thuyết ấy thì vua, cha, chồng như là cái giềng lưới, còn tôi, con, vợ thì như những cái mắt lưới. Cái giềng cứ ràng buộc lấy những cái mắt, và những cái mắt phải ở trong cái giềng. Cái giềng dương ra thì những cái mắt cũng dương theo, cái giềng xép lại thì những cái mắt cũng xép theo : giềng có tự do mà mắt không có tự do. Cái giềng ở ngoài những cái mắt, những cái mắt phải tùy cái giềng : mắt có nghĩa vụ mà giềng không có nghĩa vụ. Ấy là chỗ cốt yếu của thuyết tam cang đó, rõ là trái với cái bổn ý của đức Khổng Tử.

Bởi cớ gì sanh ra thuyết tam cang ? Nguyên bên Tàu, từ đời Xuân Thu Chiến Quốc về trước, quân quyền chưa thạnh lắm, vả bấy giờ trong nước, học thuyết chia ra nhiều phái, không phải một nhà nho mà thôi. Kế đó, nhà Tần thống nhứt thiên hạ, Thủy Hoàng đặt ra những cái lễ tôn quân ức thần, quân quyền mới mạnh lên. Nhà Hán nối lấy, y theo cả lễ pháp nhà Tần, lại bãi bỏ cả chư tử bách gia mà bắt thiên hạ chỉ tôn một Khổng giáo, ấy là nhà nho cũng nhờ quân quyền mà được mạnh. Nghề thế, chén tạc phải có chén thù, nhà nho mới càng bợ đỡ quân quyền cho mạnh thêm lên. Sách Bạch hổ thông nầy là do vua nhà Hán hội chư nho, Ban Cố đứng đầu, tại Bạch Hổ Các mà làm ra, cho nên lấy đó mà đặt tên. Bọn Hán nho đã mang sẵn tấm lòng đền ơn trả nghĩa, việc biên tập sách ấy lại thuộc dưới quyền quân chủ nữa, thì đẻ ra thuyết tam cang nầy ! Đẻ sau mà khôn trước ! Rồi đó các nhà vua thay đổi nhau mà bồng ẵm nưng niu cái thuyết tam cang ấy để nó binh vực quyền lợi cho mình, thành ra không bao lâu mà nó đè sấp cái thuyết ngũ luân của Khổng Tử. Cho đến bây giờ ai cũng nói “cang thường”, “cang luân” hay là “tam cang ngũ thường”.

Vậy cho biết bốn chữ cang thường luân lý hồi đức Khổng Tử chưa có ngũ luân mà theo nghĩa bình đẳng như nói trên kia mà thôi, chớ ngài không hề biết có tam cang là gì, và tam cang là cái thuyết của Hán nho nịnh nhà vua mà đặt ra vậy.

Hết Hán nho rồi tới Tống nho, đều là những kẻ tự xưng mình là nối lấy chánh truyền của Khổng Tử mà đã cắt nghĩa sai hoặc đã vẽ rắn thêm chưn trong học thuyết Khổng Tử, làm cho đạo ngài thay hình đổi dạng đi hay là mờ tối đi.

Tống nho cũng phụ họa theo thuyết tam cang của Hán nho. Về ngũ luân, họ cũng làm mất cái bổn ý của Khổng Tử, nghĩa là họ bỏ mất cái tinh thần bình đẳng về nghĩa vụ mà xoay ra mặt áp chế.

Ông Châu Hi nói rằng : “Nói với con lấy điều hiếu, nói với tôi lấy điều trung”. Ông gì đó (tôi quên tên) nói rằng : “Cái nghĩa vua tôi, không có thể trốn đâu trong trời đất”. Ông La Tùng Ngạn nói rằng : “Trong thiên hạ không có cha mẹ nào là chẳng phải”. Lại ông Trình Hy cấm đàn bà góa lấy chồng, nói rằng : “Chết đói là sự nhỏ, thất tiết là sự lớn”. Đó, coi bao nhiêu lời đó, đủ thấy cái ý kiến của Tống nho về luân lý là trái nhau với Khổng Tử, họ không thèm ké né chút nào hết, cứ trợn mắt phùng mang mà đè nén kẻ bề dưới (tôi, con, vợ) và ra mặt bợ đỡ kẻ bề trên (vua, cha, chồng).

Phái Tống nho cũng gọi là phái Lý học. Vì phái ấy chuyên giảng về tánh lý, biểu học giả phải dụng công trong sự tồn tâm dưỡng tánh, coi là sự hệ trọng nhứt của đạo nho. Một điều đó cũng tỏ ra rằng Tống nho sai với Khổng Tử xa quá, bởi chưng cái phạm vi của Khổng giáo thật là rộng rãi, mà đến họ thì họ khép bớt cho hẹp lại. Đại để mấy ông Tống nho, ngoài cửa cũng treo môn bài Khổng giáo, trước sân cũng dựng cờ Khổng giáo, nhưng cái chương trình trong bàn giấy họ thì khác, vậy mà họ dám tuyên ngôn rằng đạo Khổng Tử truyền đến Mạnh Tử rồi đứt đi cách hơn một ngàn năm đến bà con họ mới tiếp theo !

Hán nho cách đời Khổng Tử chưa xa mấy, nên dầu có sai lạc cũng còn ít ; đến Tống nho mới càng sai lạc nhiều hơn. Nhưng vì các học thuyết của họ dễ làm cho người ta trở nên hiền lành yếu đuối, lợi cho sự cai trị, nên từ đó về sau, Tàu cũng vậy, ta cũng vậy, các nhà vua đều tôn chuộng Tống nho và bắt thần dân mình phải học theo sách vở của họ đã làm ra hoặc đã chú thích. Đọc sử nước ta, thấy hồi nhà Lý nhà Trần cũng học đạo Khổng mà trong nước cường thạnh, đến nhà Lê về sau cũng học đạo Khổng mà quốc thể càng ngày càng suy kém, nhơn tài cũng không lỗi lạc bằng xưa, ấy hoặc vì còn có cớ gì khác nữa, song tin theo học thuyết Tống nho, là một cớ rất trọng yếu vậy.

Tôi đã theo sự biết của tôi mà cải chánh lại điều sai lầm của người mình tin tưởng về Khổng giáo, nhứt là về cang thường luân lý ; bây giờ tôi xin vẽ cái chơn tướng của Khổng giáo ra đây.

Tôi cũng như người ta, lại có lẽ người ta học rộng biết nhiều hơn tôi, thì sao tôi dám bảo người ta là sai lầm ? Tôi có một điều tin cậy ở mình được, là như trên đây, tôi đã đem lời của Khổng Tử ra mà đối chiếu với lời của Hán nho và Tống nho, sau khi đối chiếu, họ có sai lầm hay không, độc giả cũng đã thấy rồi. Tôi tưởng, nếu có người mạo cái giấy căn cước của tôi, mà quan tòa muốn xét cho ra sự giả mạo ấy thì chỉ có đòi tôi đem trình chính cái giấy căn cước của tôi ra là mạnh lẽ hơn hết. Vậy trên đây, tôi cũng chỉ đến trình cái giấy căn cước của Khổng Tử ra trước mặt độc giả mà thôi. Dưới nầy đến phiên tôi vẽ cái chơn tướng của Khổng giáo, tôi cũng chỉ trình giấy căn cước ấy ra một lần nữa mà hơi kỹ một chút.

Tôi chắc nhiều người cũng đã hiểu như tôi rằng Khổng giáo là không phải một cái tôn giáo, nhưng là một cái học thuyết. Nay ta kêu bằng Khổng giáo, Khổng học, hay là đạo Khổng, học thuyết Khổng Tử cũng được, chẳng qua theo sự tiện lợi trong khi hành văn đó thôi. Bởi vậy, Khổng giáo không cần đem mà so sánh với các tôn giáo khác, vì nó khác thứ : người ta đem so sánh lụa với lụa, chớ không ai đem so sánh lụa với “hàng lá môn” bao giờ.

Tôi biết vậy, song muốn cho dễ hiểu, tôi phải so sánh sơ qua. Các tôn giáo khác, như Phật giáo, Gia-tô giáo, đều trọng về việc ngoài thế gian, mà Khổng giáo thì trọng về việc thế gian. Các tôn giáo ấy trọng về việc vị lai, mà Khổng giáo thì trọng về việc hiện tại. Một điều rất khác là chính đức Khổng Tử, ngài xưng mình là một người thường, tổ thuật theo các thánh đời xưa, chớ không đưa cái bằng cấp “duy ngã độc tôn” và “Con Đức Chúa Trời” ra như Thích Ca và Jesus Christ. Ngài là người thường, cho nên đạo của ngài cũng chẳng qua là việc thường, dạy cái cách người ta ở đời với nhau mà thôi. Tôi nói thế, hình như con mắt tôi nhỏ quá ; song thật đấy, một lần Tử Lộ hỏi về sự thờ quỷ thần, ngài không trả lời ; lại về tánh và đạo trời, học trò ngài chưa được nghe ngài nói tới.

Tuy vậy, thâu lại thì nói rằng cái cách người ta ở đời, chớ bùng ra thì nội trong cái cách đó cũng đã bộn bề công việc.

Học thuyết của Khổng Tử lập nên trên một chữ “nhân”. Nhân thì yêu người, yêu người thì cứu người. “Hiếu đễ là gốc sự làm nhân”, rồi suy đến “rộng ra ơn và giúp chúng”, cái mục đích của nhân là ở đó. Cái phương pháp thì là, bắt đầu từ cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, rồi đến tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tu thân trở lên là về sự học ; tề gia trở xuống là về sự hành. “Từ thiên tử đến thứ nhân, hết thảy đều lấy tu thân làm gốc”. Nhờ cái gốc ấy đã vững vàng mà sự thiệt hành ra được đúng đắn, mọi người ở với nhau như “đo vuông”, nghĩa là bốn bên không lấn mác nhau mà xã hội được quân bình.

Trong chữ “nhân” có nghĩa bình đẳng. Vì chữ “nhân” bởi chữ “nhị là hai” và chữ “nhân là người” ráp lại. Cho nên nhân, nghĩa là cái lòng yêu của hai người đối với nhau, mà cũng là cái bổn phận của hai người đều phải có. Vì vậy mà trong ngũ luân, mỗi một luân, bên này phải có bổn phận đối với bên kia. Nếu chếch đi một bên thì thành ra bất bình mà không gọi là nhân được. Nhờ một chữ nhân đó, làm cho xã hội được quân bình, mọi người ở với nhau đằm thắm, ấy là cái phước lớn của nhân loại.

Tôi muốn vẽ ra cái chơn tướng của Khổng giáo mà chỉ nói có chừng nầy, thiệt là sơ lược quá. Song độc giả cũng biết rằng nếu nói cho đủ thì một cuốn sách cũng không đủ được, đây tôi chỉ từ trong thiên kinh vạn quyển mà rút ra một điều cốt yếu mà thôi. Thế nhưng tôi dám quyết rằng đó là cái ý chánh của Khổng giáo, còn kỳ dư có những gì nữa đều là phụ thuộc hết.

   




Chú thích

  1. Sách Trung dung, chương III
  2. Thấy trong sách Luận ngữ, thiên Nhan Uyên
  3. Đại học, chương III
  4. Luận ngữ, thiên Bát dật