Gia Long tẩu quốc/Hồi thứ hai mươi hai

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI

Ghé phật tháp anh em ký túc,

Gặp tiền cừu trộm cướp hành hung.


Khi mấy anh em Nguyển-Hửu-Thoại qua khõi Đèo Ô-lặc một đổi, thì mặt trời đã vừa khuất núi, bỗng thấy phía trước có một cái quán nhõ, dựa đường.

Nguyển-Hửu-Thoại day lại nói với mấy anh em rằng:

— Trời đã gần tối, vậy chúng ta phải vào quán nầy cơm nước và kiếm chổ nghĩ đỡ một đêm, rồi sáng mai sẽ đi cho sớm, vì đường này nhiều chổ non cao truông vắng, rừng bụi quạnh hi, chúng ta chẵng nên trổi buớc trong lúc ban đêm, e gặp loài độc trùng ác thú, nói rồi các anh em liền dắt nhau vào quán, trong quán chẵng thấy chi la, chĩ có ít đùi thịt rừng, và ít ve rượu trắng, kế thấy một người đàn bà Cao-man phía sau bước ra, bộ tướng dình dàng, tay chơn kịch cợm, tóc hớt cụt cụt, nước da ngâm ngâm, môi trớt đầu quăng, cặp mắt có huầng như hai cái khoen, hai vú nhẩy lên vun xũn, mặt mày hung ác, mũi rộng răng hô, xem như một quĩ dạ xa, ở đâu hiện đến, rồi bước tới rão mắt ngó hết mấy người châm châm, và nói chi láp giáp không hiểu.

Cao-phước-Trí bèn bước lại dùng tiếng Caoman mà hỏi rằng: ở đây có bán đồ gì ăn không?

Người đàn bà cười và nói, ở đây là chổ núi non rừng bụi, không có chi lạ, chĩ có thịt nai thịt chồn, cái nướng cái kho, thứ thì phơi khô, thứ thì xẽ mấm, ngon lắm, mấy ông muốn ăn thứ nào thì tôi dọn ra cho các ông dùng đở.

Cao-phước-Trí bảo dọn ra ít món thữ coi, và đem rượu ra uống.

Người đàn bà ấy lật đật bão hai đứa ở, xúm lại phụ sự, rồi dọn ra một mâm đồ ăn.

Nguyễn-hửu-Thoại với mấy anh em ngồi lại nơi ghế, bão quân lấy lạp-xưởng thịt-khô của mình đem theo phụ vô, rồi cả thảy ba anh em với ba tên quân nhơn, đều ngồi lại ăn uống một lược.

Nguyễn-hửu-Thoại bảo Cao-phước-Trí hỏi người đàn bà chủ quán, có chổ nà nghĩ ngơi chăng?

Cao-phước-Tri liền kêu chủ quán lại hỏi rằng:

— Ở đây có chỗ nào rộng rãi, để cho anh em chúng ta nghĩ đở một đêm, rồi tính tiền bao nhiêu chúng ta sẽ trã.

Người đàn bà ấy nói:

— Ở quán đây chật hẹp lắm, không có chổ nghỉ, nhưng phía trong đây có một cái chùa tháp rộng rãi, nếu mấy ông muốn nghỉ thì vào dó nghĩ đở một đêm, không cần tiền bạc chi hết.

Cao-phước-Trí hõi:

— Chùa ấy có ai ở đó đông không?

Người đàn bà nói:

— Không có ai đông, chĩ có một ông già cất chòi ở sau tháp đó mà thôi, cho không ai nữa hết.

Nguyển-hửu-Thoại day lại hõi rằng:

— Tháp ấy người ta mới tạo lập ra đây, hay là có tự lập thuở nay?

Người đàn bà nói:

— Tháp ấy có hồi nào tôi không biết được, song mấy năm trước bỏ hoang, không ai ở hết, mới hai năm nay tôi cho ông già ấy vô ỡ, sửa soạn sạch sẽ, mấy ông cơm nước xong rồi, tôi sẻ dắt vào coi thử.

Trần-xuân-Trạch hõi:

— Còn thiếm ở đây một mình, hay là có chồng con chi không?

Người đàn bà nói:

— Tôi có chồng, mà chồng tôi mắc vào rừng đốn củi chưa về, nói rồi hối trẻ đem nước cho mấy ông uống.

Khi mấy anh em ăn uống rồi, người đàn bà liền dắt vào tháp, thì thấy tháp ở giữa gò cao, chung quanh có mấy cây đại thọ, tàng de lá rậm, đá liển tường xây, thật là một chỗ cổ tích thâm niên, chẳng biết đời nào sáng tao, dưới thềm trên nóc, ngổn ngang cỏ mọc bìm leo, trước ngỏ quanh tường, lờ mờ rêu phong bụi đóng, còn bốn phía nền toàn làm bằng đá, cao lên khỏi đầu, và hai bên thềm đều có thạch trụ lang cang, tuy là bị gió tạc mua xoi, tường hư đá lở, nhưng mà một tòa đống võ qui mô, xem ra cũng còn nguy nga đồ sộ.

Người đàn bà ấy dắt mấy người lên thềm, rồi bước vô mở cửa, Nguyễn-hửu-Thoại và các anh em đều bước theo, thì thấy chính giửa có một phậ tượng bằng đá, ngồi trên một thạch bàn, dưới thạch bàn ấy có xây một cửa nguyệt cung nho nhỏ, cao chừng ba thuớc, còn chung quanh bốn phía thì rộng rãi trống trơn, không có bàn ghế chi hết, trên mặt nền đều có lót gạch, nhuw gạch da qui, và dọn dẹp quét tước sạch sẽ.

Người đàn bà ấy hối trẻ lấy chiếu trải trên gạch, rồi day lại cười và nói rằng:

Ỡ đây không có ván giường chi hết, mấy ông chịu phiền nằm trên chiếu nghĩ đở một đêm.

Nguyển-hửu-Thoại thấy trong tháp sạch sẻ, tuy không có giường ván, phòng buồng, song phía trước phía sau đều cò cữa nẽo chắc chắn, thì nói với người đàn bà ấy rằng:

Cám ơn thím, không cần ván giường, chúng tôi nghĩ đở dưới gạch một đêm cũng được, nói rồi bảo quân nhơn đem đồ hành lý vô trong, còn mấy con ngựa thì cột nơi mấy cây đại thọ trước tháp, và bão mấy tên quân nhơn thay phiên mà canh giử, còn Nguyển-hửu-Thoại với hai anh em đóng cửa trước cửa sau chắc chắn rồi nghĩ.

Nằm một lát đã nghe Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí hai người ngủ ngáy pho pho, mot lát lại nghe Cao-phước-Trí ngủ mớ và la cọp cọp om sòm, rồi lại nghiến răng trèo trẹo.

Nguyển-hửu-Thoại ngủ không đặng, phần lo đêm khuya tâm tối, phần sợ ba tên quân nhơn ở trước không biết có thức mà canh giử mấy con ngựa không, trong lòng mảng hồ nghi lo sợ như vậy, mà không hề ngủ đặng, kế nghe con ngựa ở trước dậm cẳng hầm hừ.

Nguyển-hữu-Thoại liền kêu Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí dậy, rồi cùng nhau lén lén mở cữa ra xem, núp dựa vách tường ngó ra, thì trời tối như mực, mấy anh em rình coi một hồi rất lâu, nhưng không thấy chi hết.

Nguyển-hữu-Thoại liền sẻ lén bước lại chỗ tên quân canh, đặng coi hắn thức hay ngũ.

Tên quân canh day qua thấy một bóng đen đi tới, liền rút gươm nhãy ra muốn đâm.

Nguyễn-hữu-Thoại liền thối lui lại, lấy tay khoát khoát và nói nhỏ nhỏ với tên ấy rằng:

Tao đây, tao đây, không phải quân cướp đâu.

Tên quân coi lại, thấy chũ tướng là Nguyển-hửu-Thoại, thì hỏi rằng:

— Bẩm chủ tuớng đi đâu đây?

Nguyển-hửu-Thoại lại hỏi rằng:

— Nãy giờ mầy có thấy chi không?

— Bẩm chủ tướng nảy giờ tôi ngồi canh đây, không thấy chi lạ.

— Nãy giờ mầy thức hay ngủ?

— Bẩm chủ tướng hôm giờ tôi thức luôn luôn, nếu tôi ngũ thì khi chủ tướng bước lại, tôi thấy đâu mà nhảy ra...

Nguyển-hửu-Thoại vổ vai tên quân ấy một cái và nói rằng: như vậy cũng được đa, nhưng mi phải biết rằng: thức mà canh trong lúc đêm khuya, thì chẳng nên ngồi im một chỗ, vì nếu mi ngồi im một chổ, thì mi không thấy đặng chổ nọ chỗ kia, mà con ma ngũ lại áp tới rù quến mi, và vuốt hai mi con mắt mi sập xuống, chừng ấy thì mi ngồi như một cái bù nhìn, mà không thấy chi hết, nói rồi Nguyễn hửu-Thoại bảo tên quân ấy lại kêu hai đứa quân kia thức dậy.

Tên quân ấy thưa vâng, rồi bước lại kêu nhõ nhõ.

Song hai tên kia ngũ đả mê mang, không nghe chi cã.

Tên quân ấy liền lấy tay đánh trên mặt một cái, tên quân kia đương ngũ hồn bất phụ thể không biết là ai, bèn giang tay thoi đùa, chẳng dè thoi nhằm mặt tên quân đương ngũ một bên, tên nầy dựt mình tưởng là ai đánh, liền co giò đạp tên ấy một đạp rất mạnh, rồi cã hai đều thức dậy, ngó lên thấy Nguyễn-hửu-Thoại đứng đó, thì lật đật xá lia, và nói rằng:

— Bẩm chủ tướng có việc chi cần dùng tới hai con, hai con ngũ quên, không dè có chủ tuởng đến.

Nguyễn-hữu-Thoại bước lại dặn nhỏ rằng:

— Ba đứa bây phải thức coi chừng mấy con ngựa, và đồ hành lý, đặng ba anh em tao đi ra ngoài kia một chút rồi trở lại liền, và day lại nói với hai anh em kia rằng: chúng ta phãi đi do thám con chũ quán một chút mới đặng.

Ba tên quân ấy vâng lịnh, rồi mỗi đứa lại đứng một góc mà canh.

Lúc bấy giờ Nguyễn-hửu-Thoai với Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí liền sẻ lén bước ra khỏi tháp, rồi ẩn theo mấy bóng tối mà đi, kẻ ngó trước người ngó sau, coi chừng hai bên bụi bờ, cách rất đề phòng cần thận, khi ba anh em ra tới cái quán của người đàn bà, thấy trong quán có một ánh đèn leo lét lòn theo kẹt cửa dọi ra, lại nghe tiếng nói lào xào rầm rỉ trong quán.

Nguyển-hửu-Thoại bảo Trần-xuân-Trạch đứng núp nơi gốc cây coi chừng, rồi đi với Cao-phước-Trí ẩn theo bóng tối, lần tới kẹt cữa, ghé mắt dòm vô, thấy người đàn bà chủ quán ngồi một bên, còn bên nây hai người đàn ông, bộ tướng vậm vở, một người mặc áo xanh cụt, vận chăn vén lên chi gối. một người mình trần, trên vai có nịt một cái băng, vải đen, vấn ra tới ngoài cánh chỏ, và thấy mấy lằng đen đen, chãy xuống chung quanh cái băng như hình vít máu, kế thấy người đàn bà day lại ngó tên ấy và hỏi rằng:

Còn mình làm sao mà nịt trên vai đó vậy?

Tên ấy nheo mày mà đáp rằng:

— Mày đừng hỏi, may không chút nửa tao củng phải chết mất bên mé rừng kia rồi, khi tao muốn cởi ngựa vào rừng, thì bị nó bắn tao một mũi trúng vai, tao nhắm thế không xong, liền bỏ ngựa nhãy xuống, chun tuốt vào rừng mà trốn, rồi bọn nó chạy lai giết chết thằng Nặc-Thôm, và rược theo anh Sốc-cà-Mung nầy mà bắt ngựa nó lại.

Người đàn bà nghe nói liền ngó qua người mặc áo xanh cụt là Sốc-cà-Mung mà hỏi rằng:

— Còn anh Sốc-cà-Mung, anh làm sao mà thoát khỏi bọn nó?

Tên mặc áo xanh day lại nói rằng:

— Thật quân An-Nam nó dử quá, khi chúng nó rược theo bắn tôi, thi tôi bỏ ngựa mau chơn nhãy phức xuống bụi mà trốn, chẳng dè bon nó theo kiếm, tôi bèn leo phức trên cây, chúng nó leo theo bắt tôi, tôi liền chuyền qua cây kia rồi nhãy xuống hầm đá, chun tuốt vô bang, núp đó chờ nó xuống, sẻ đâm nó một dao đặng cáp-duồng[1] cho rãnh, nhưng bọn nó không xuống, rồi dắt ngựa trở về, nên tôi mới thoát về đây được.

Cao-phước-Trí với Nguyển-hửu-Thoại đứng ngoài cữa nghe chúng nó nói vậy, thì biết là bọn cướp ngựa hôm qua, và chổ nầy chắc là chỗ nhà cửa vợ con chi của nó.

Kế nghe người đàn bà hỏi rằng:

— Bọn nó đông lắm sao mà mấy anh đánh không lại?

— Bọn nó không đông, chỉ có sáu người với sáu con ngựa mà thôi, nhưng nó có vỏ nghệ, và có súng, nên đánh nó không lại.

Người đàn bà nghe nói thì vội vã đứng dậy hỏi rằng:

— Mà bọn nó là người nước nào?

Tên mặc áo xanh nói:

— Bọn nó toàn là người An-Nam hết cả, mà trong đó có ba người bộ tướng như người quan, còn ba tên kia là người quân lính chi đó.

Người đàn bà nghe nói, coi bộ hơ hải và nói rằng:

— Nếu vậy thì là bọn An-Nam ở trong chùa tháp đây chăng? Hai tên kia liền trợn mắt nheo mày ngó người đàn bà ấy chăm chĩ và hỏi rằng:

— Bọn Annam nào ở trong chùa tháp?

— Bọn nầy cũng sáu người cởi sáu con ngựa, và nói đi qua Xiêm, mới ghé quán ăn uống hồi tối nầy, bây giờ đương ở trong tháp.

Hai người kia nghe nói, liền đứng dậy ra bộ chẩm hẩm và nói rằng:

— Nếu vậy thì chúng nó đã vào chỗ hỗ huyệt cũa chúng ta rồi đấy, vậy chúng ta đêm nay quyết giết bọn nó cho được mà báo thù cho thằng Nặc-Thôm.

— Anh muốn báo thù chúng nó sao?

— Dịp nầy không báo thù còn đợi chừng nào?

Người dàn bà ấy nói: vậy thì anh và mình phải đi kêu mấy người kia cho đông, rồi sẻ khởi sự, chớ tôi coi bọn nó giỏi lắm, nếu làm không được việc thì mang hại chớ chẳng chơi đâu.

Hai tên kia gặc đầu và nói rằng:

— Đừng lo, để ta kêu mấy anh em kia phụ lực cùng ta, đặng cáp duồng chúng nó một trận thì xong việc, còn mầy ở nhà phải sắp sữa dao mát sẳn sàng, hai đứa tao đi một chút rồi trở lại, rồi cùng nhau vào tháp mà giết nó.

Cao-phước-Trí đứng ngoài nghe chúng nó bàn soạn như vậy, thì day lại kê miệng vào tai nói nhỏ với Nguyển-hửu-Thoại rằng:

Phải nó rồi, phải nó rồi, mấy thằng nầy là bọn cướp ngựa của mình hôm qua.

Nguyển-hửu-Thoại nghe rồi lấy tay khoát khoát bảo đừng nói đừng nói, rồi hai người sẻ lén bước ra và tức tốc trở về chùa tháp.

Khi về tới tháp, Nguyển-hữu-Thoại kêu ba tên quân nhơn và bảo rằng:

— Chúng bay phải sẻ lén, đem sáu con ngựa vô giấu trong rừng gần đây, rồi ở đó mà giữ đừng cho ai biết, chừng nào nghe tao kêu thì chúng bây sẻ ra tiếp ứng.

Ba tên quân vâng lịnh, liền dắt ngựa lén lén vào rừng, còn Nguyển-hửu-Thoại với hai anh em kia đều vào trong tháp, đóng chặc cữa lại và nói rằng:

Quân cường-đạo ấy đêm nay chắc kéo đến đông, quyết giết chúng ta mà báo thù, vậy chúng ta phải đóng cữa tháp lại cho chắc, rồi ở trong thủ thế, nếu chúng nó tới sao cũng phá cửa xông vô, chừng đó chúng ta núp phía trong cửa mà giết nó mới tiện, nếu ra ngoài cự địch với nó thì e chúng nó đông, còn chúng ta thì ít, lại sợ một nỗi nó ẫn núp theo chỗ tối tâm mà hại mình, chi bằng ba anh em ta muợn thế cái tháp nầy làm chỗ cứ hiểm, chờ chúng nó xông vào, sẻ giết nó một trận cho dữ, nói rồi ba anh em sữa soạn súng ống gươm giáo sẳn sàng, chờ quân cướp tới mà cự chiến.

Ba anh em núp trong tháp, đợi một hồi rất lâu, nhưng không thấy tâm dạng chi hết.

Trần-xuân-Trạch bước lại nói nhỏ với Nguyển-Hửu-Thoại rằng:

— Chắc là chúng nó không tới, nãy giờ đã lâu, mà sao chưa thấy chi hết.

Nguyển-Hửu-Thoại nói: chúng nó chắc còn vầy đoàn hiệp lũ, tụ tập cho đông, rồi sẽ kéo tới, thế nào bọn nó cũng quyết giết chúng ta, nội một đêm nay, chúng ta chẳng nên ơ hờ mà mang hại, đó rồi ba anh em mỗi người đứng núp một góc mà coi chừng, và lóng tai đặng nghe động tịnh.

Canh khuya đêm vắng, lặng lẻ ba bề, rừng rậm cây cao, tối đen bốn mặt, khi nghe dơi bay rẹt rẹt, lúc nghe lá đổ lào xào, kế nghe một tiếng chim ục kêu lên nơi phía rừng sau, bỗng nghe một tiếng ục khác đáp lại nơi phía rừng trước.

Nguyển-Hữu-Thoại liền buớc lại kêu Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí mà nói nhõ rằng:

Hai anh em có nghe tiếng chi kêu đó chăng?

Cao-phước-Tri nói: chim ục nó kêu ngoài rừng, chớ có tiếng chi đâu lạ.

Nguyển-hửu-Thoại nói:

— Tiếng chim ục kêu đó là hiệu của quân cường đạo, kêu nhau trong rừng, chớ chẵng phải chim thiệt. chắc một chút đây chúng se tới, chú mầy phải dòm theo mấy lổ vách mà coi chừng, còn tôi thì coi chừng phía trước.

Hai người liền gặt đầu, rồi mỗi người lại đứng một góc, ngó chừng quân cướp.

Mấy anh em rình coi một hồi rất lâu, nhưng không thấy chi hết, kế thấy một ánh sáng nhán qua trên mấy bụi cây, và xẹt qua trước tháp một cái rồi mất, còn bốn phía lặng lẽ yêm liềm, không nghe không thấy chi nửa.

Giây lâu, Nguyển-Hửu-Thoại nghe khua một cái như tiếng đá tiếng gạch đụng nhau, liền bước lại kêu Trần-xuân-Trạch và nói: chú mầy có nghe tiếng gì mới khua đâu đó không? hay là nó lén cạy vách tường chăng?

Trần-xuân-Trạch nói: Phải đa, tôi cũng có nghe khua một tiếng như tiếng đá miễn, mà không biết ở đâu.

Lúc bấy giờ anh em ai nấy đứng rình đã mõi mê, và đêm đã khuya lắm, mà không thấy tin tức quân cường-đạo ở đâu, mấy anh em bèn lại ngồi xuống chiếu đặng nghĩ một chút.

Thình lình bổng nghe một cái ầm rất to, vang dội cả tháp.

Ba anh em liền lật đật đứng dậy, kế thấy một ánh sáng lòa ở dưới tuợng phật dọi lên, làm cho cã tháp đều sáng.

Ba anh em đều rút gươm rồi nhảy lại núp một bên mấy cây cột tháp để coi, thì thấy dưới thạch bàn ở chổ tượng phật, ló lên hai ngọn đèn như ngọn đèn chai và rần-rần nhảy vọt lên hơn mười mấy tên cường đạo, mổi thằng đều vận một cái khố vằng sát da, đầu trọc, mình trần, và có một người đàn bà là người chủ quán khi nãy, cả thảy đều cầm dao xách mát, bộ mặt hầm hầm, chạy tới rần rần, kiếm ba anh em Nguyển-Hửu-Thoại mà giết.

Trong lúc nguy cấp ấy, không kịp rường súng mà bắn, ba anh em liền huơi gươm đánh nhầu vớ chúng nó một trận rất dử, bao nhiêu dao mát chúng nó chém tới, Nguyển-Hửu-Thoại đều gạt ra, tiếng gươm dao đụng nhau nghe kêu ken kẽn, còn Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí cũng xốc tới chém sã quân cuờng đạo một hồi. Ba anh em tràn qua, nhảy lại, xốc tới, chạy lui, bộ tịch rất lẹ làn hung hăng như ba con mảnh hổ.

Đánh một hồi, quân cường đạo đứa thì bị đâm nhào xuống, đứa thì bị chém ngã lăng, rồi rùng rùng kéo nhau chun vào lổ dưới thạch bàn mà chạy hết.

Trong lúc bất cập, người đàn bà cường dạo nầy mới vừa lại lổ ấy, đặng chun xuống mà trốn theo lũ kia, thì Cao-phước-Trí đã nhảy lại, ôm ngang eo ếch, vật xuống một cái té nhào, người đàn bà ấy hai tay xô Cao-phước-Trí ra rất mạnh rồi chờn vờn chổi dậy, nhưng mới vừa chổi dậy thì Cao-phước Trí nhảy lại đè lên, người đàn bà nầy lửa giận phừng gan, liền hả miệng nhăn răng, như một con cọp cái hung hăng, day lại cắn ngang bắp tay Cao-phước-Trí một cái. Cao-phước-Trí liền dục tay ra, rồi nhảy ngồi trên bụng người đàn bà ấy và hai chơn thúc vô hai bên hông, kẹp lại chặc cứng, còn hai tay thì nắm hai cánh tay của con ác phụ mà đè xuống.

Người đàn bà cường đạo nầy bị Cao-phước-Trí đè một hồi mệt quá, không còn vùng vẩy gì đặng, lúc bấy giờ chĩ có nằm dưới, trợn mắt nghiến răng la hét om sòm, thuở nghe è ạch, còn Cao-phước-Trí ngồi trên, bậm môi gầm mặt, chơn thúc tay kềm, xem như một con cọp đực với một con cọp cái dành ăn, hầm hừ dử tợn, Cao-phước-Trí ngồi trên bụng đắc thế, sẳn trớn nhún xuống một cái rất mạnh, con mẹ nọ la lên một tiếng rồi chổng đích ngóc đầu, muốn lật Cao-phước-Trí xuống đất, anh ta rất lẹ liền rút cây đoãn đao bên lưng ra và lấy sợi dây trong túi, rồi nghiêm sắc mặt mà nói lớn rằng:

Mi hảy nằm yên, đưa hai tay lên cho ta trói, nếu mi còn vùng vẫy chống cự, thì ta cho mi một mũi đao vào yết hầu, chừng ấy mi đừng oán trách, nói rồi lấy cây đoãn đao, kê ngay nơi cô, và mắt ngó lườm lườm vào mặt con ác phụ mà bão cách oai thế rằng: mi hảy đưa tay ra cho mau đi, không thì, ta khai đao mi lập tức.

Con đàn bà nầy thấy Cao-phước-Trí mạnh mẽ phi thường, không thế gì chống nổi, liền ríu ríu đưa tay.

Cao-phước-Trí tức thì lấy dây trói lại, và bão đứng dậy rồi nói rằng:

Mi muốn tánh mạng mi còn, thi mi phải ở đây cho tới khi chúng ta đi khõi tháp nầy, rồi ta sẽ tha mi, mà nếu mi để cho mấy thằng cường-đạo kia còn kiếm chước ám hại chúng ta, hay là còn làm đều chi cướp đoạt của ta, thì ta sẽ rẳng đầu mi trước, rồi sẽ giết cã bọn mi không chừa một đứa.

Trong khi Cao-phước-Trí đánh vật với con đàn bà cường đạo này, thì Nguyển-hửu-Thoại bão Trần-xuân-Trạch lại đứng giử chổ miệng hầm, còn Hửu-Thoại xách súng ra mở cửa sau, đặng coi quân cường-đạo chạy ra chổ nào, nhưng không thấy chi hết.

Nguyễn-hửu-Thoại liền day mặt qua phía rừng, chổ mấy tên quân giử ngựa, rồi bụm tay nơi miệng, kêu lớn một tiếng, tức thì mấy tên quân, mổi đứa tay cầm trường thương, cởi ngựa rần rần chạy tới như giông.

Nguyễn-hửu-Thoại bèn nhảy lên ngựa mình, rồi dắt mấy đứa quân nhơn chạy một vòng chung quanh tháp ấy, đặng kiếm coi quân cường đạo đi đâu, nhưng kiếm cùng mà không thấy chi hết.

Nguyễn-hửu-Thoại liền dắt quân trở lại cữa sau buớc vô, thấy Cao-phước-Trí và Trần-xuân-Trạch còn đứng giử lom lom một bên miệng hầm, phía dưới bàn phật, và thấy con đàn bà cường-dạo đã bị trói lại, cũng đứng một bên, thì trợn mắt ngó con đàn bà một cách nghiêm nghị và hỏi rằng:

Mi hảy nói cho ta biết, tên đầu đãng bọn cướp nầy là thằng nào, và ở đâu?

Con mẹ nầy nghe hỏi thì đáp rằng:

— Chánh đãng cướp nầy là chồng cũa tôi, là người bị bắn trúng vai hôm qua, còn tôi đây là phó-đãng.

Cao-phuớc-Trí làm thông ngôn nói lại, Nguyển-hửu-Thoại nghe rồi gặt dầu và hỏi tiếp rằng:

— Bây giờ chồng mi và mấy thằng cường đạo còn tàng ẩn ở dưới hầm nầy phải không? mi hảy nói ngay, bằng không, thì ta giết mi tức tốc.

Con đàn bà nầy liếc cập mắt độc ác ngó Hửu-Thoại một cái rồi nói rằng:

— Chúng nó đã đi rồi, không còn ở dưới.

Nguyển-hửu-Thoại hỏi:

— Chúng nó đi ngả nào, sao ta không thấy? hõi vừa dứt, bổng thấy một hình quái gở, ở dưới lổ hầm ló lên, nhờ có ánh sáng một ngọn đèn chai của bọn cường đạo bỏ lại còn cháy lờ mờ, nên thấy cái hình ấy hiện lên một đống đen thui, cao lớn sầm sầm, không đầu, không tay, không mặt không mũi chi hết.

Nguyển-hửu-Thoại vừa rút guơm ra, thì Trần-xuân-Trạch đã nhảy lại đâm hình ấy một gươm, nghe kêu cái bịch, nhưng hình ấy chĩ đứng trơ trơ, Cao-phước-Trí thấy vậy cũng nhãy lại huơi gươm muốn đâm, kế con đàn bà ấy la lên và nói:

— Dục-căng-Then, mi hảy đi đi, nếu mi còn léo hánh đến đây, thì ta phải bị chúng nó giết chết, Dục-căng-Then mi hảy đi đi cho mau, và đừng sanh sự gì nữa, mà ta phải chết bây giờ, con đàn bà nói rồi, thì hình ấy liền nhảy xuống hầm một cái rồi mất.

Nguyển-hửu-Thoại day lại ngó con đàn bà ấy lườm lườm và nói rằng:

— Bọn nó còn đó sao mi dám dối ta?

Con đàn bà cường đạo ấy nói:

— Người đó là chồng tôi, nó không thấy tôi nên phải mặc lốt da voi trở lên kiếm tôi, tôi đả nói cho nó biết rồi, bây giờ nó không dám làm sự chi hãm hại mấy ông nữa hết.

Nguyễn-hửu-Thoại hõi:

— Còn cái hầm dưới tháp nầy trỗ ngách ra đâu?

Con đàn bà nói:

— Cái hầm ấy có một đường hang đi dưới đất, trỗ ra ngoài rừng, còn một đường trỗ ra phía sau nền tháp.

Nguyển-hữu-Thoại nghe rồi kêu Cao-phước-Trí bảo rằng:

— Cao hiền-đệ phải giử con nầy cho kỷ, để cầm nó đó mà hâm dọa bọn cường đạo kia, đặng bọn nó không dám sanh sự hại mình, chừng nào ra khõi chỗ hỗ huyệt nầy rồi, chúng ta sẻ phóng sanh con ác phụ ấy mới được.

Nói rồi, thấy trời đã gần sáng, Nguyển-hửu-Thoại liền bão mấy đứa quân nhơn sắp sữa hành lý, và bảo Cao-phước-Trí dắc con đàn bà cường đạo nầy theo, còn mấy tên quân cầm gươm đi cập hai bên, rồi các anh em đồng lên ngựa kéo nhau ra đi, thì trời đả sáng trắng.

Kế thấy trong rừng hai ba người cầm dao xách mát lấp ló đi theo, người đàn bà ấy thấy thì kêu và nói:

Dục căng-Then, ta bão mi đi đi, đừng sanh sự mà ta phãi bị chúng nó giết chết, mấy tên kia nghe nói liền lần lần đi mất.

Khi ra khỏi tháp một đổi xa xa, Nguyễn-hữu-Thoại thấy không có việc chi xãy đến, bèn day lại nói với Cao-phước-Trí rằng:

Chúng ta bây giờ đã ra khỏi chổ hiểm nguy cường đạo ấy rồi, vậy thì chúng ta tha con đàn bà nầy về cho rãnh, đặng lo giục ngựa buông cương, nếu để diêng trì ngày giờ, thì biết chừng nào chúng ta mới qua tới nuớc Xiêm mà xin binh cứu viện.

Trần-xuân-Trạch nói:

— Thôi, chúng ta giết phức con ác phụ nầy đi, cho bớt một quân cường đạo, để nó làm gì mà báo hại thiên hạ.

Nguyển-hửu-Thoại nói:

— Chúng ta là một bọn tu mi nam-tử, hào hiệp trượng-phu, sá gì một con đàn bà quần vận yếm mang, mà ta không lấy lượng hải hà, dung thứ cho nó, vả lại chúng ta đã hứa với nó rằng: nếu quân cường đạo không sanh sự nghịch thù cùng ta nữa, thì chúng ta sẽ tha nó. Vậy thì chúng ta chẳng nên thất ngôn, nói rồi liền bảo quân mở trói thả đi.

Đó rồi các anh em với ba tên quân nhơn, dơ roi giục ngựa, dậm quang sang, bương bả bước anh hùng; giải nắng dầm sương, cuơng tuấn mả, thẵng xông đường hiểm trở. Còn con đàn bà ấy nhờ Nguyển-hữu-Thoại thả ra thì lật đật trở về, bổng gặp một bọn cường đạo trong rừng nhảy ra, đón rước mừng rở một hồi, rồi kéo nhau đi mất.


   




Chú thích

  1. Cáp duồng là giết người Annam, tiếng Caoman kêu là Cáp duồng.