Gia Long tẩu quốc/Hồi thứ mười chín

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ MƯỜI CHÍN

Tây-sơn đem binh xông vào Giadinh,

Nguyển-vương bại trận thất thủ Saigon.


Đây nói về từ khi đức Nguyển-Ánh đánh dẹp quân giặc Tây-sơn, mà thâu phục Nam-kỳ lại, rồi lên ngôi quốc-vương mà trấn thủ đất Giadinh[1]

Lúc bấy giờ ngài lo chiêu binh mải mả, tích thão dồn lương, dưới thủy thì lo chế tạo chiến thuyền, trên bộ thì lo tập rèn binh sĩ, đặng phòng ngự quân giặc Tây-sơn trong khi tranh chiến.

Còn vua Tây-sơn là Nguyển-Nhạc thì chiếm cứ Qui-Nhơn đễ làm thành đô, và sai em là Nguyển-Huệ, trấn thủ tại Phú-Xuân là Huế, đặng ngăn ngừa binh cũa chúa Trịnh ngoài Bắc.

Nước Nam ta lúc bấy giờ phân tranh ra làm ba nước, cũng như đời Tam-Quốc bên Tàu khi trước vậy.

Ngoài Bắc thì Trịnh-Sum xưng chúa, chĩ đễ cho vua Triều-Lê một biểu hiệu đó thôi, còn bao nhiêu quyền hành chánh trị, thì một tay chúa Trịnh đoạt thâu dành hết, cũng như Tào-Tháo đoạt quyền vua Hiến-đế thuỡ nọ vậy.

Mấy tĩnh Trung-kỳ thì Tây-sơn Nguyển-Nhạc xưng vương, mà chiếm cứ từ Huế sắp về Bình-định.

Còn trong Nam-kỳ thì đức Nguyển-Ánh xưng vương, mà chiếm cứ từ Bình-Thuận trở về lục tĩnh, ấy vậy chẳng phải nước ta lúc bấy giờ đã tam phân đãnh túc, và các cứ xưng hùng như đời Tam-Quốc đó sao?

Thật là: Nhản trung chiến quốc thành tranh tộc,[2]

Nhưng mà: Hải nội nhơn tài thục Ngọa-long.[3]

Khi Nguyễn-Nhạc xưng vương và sữa soạn kinh dinh thành đô tại Qui-Nhơn xong rồi, kế nghe tin Đỗ-thanh-Nhơn là một viên kiện tướng cũa đức Nguyển-Ánh, đã bị xữ tữ, thì vổ tay mừng và nói với các tướng rằng:

— Đổ-thanh-Nhơn chết rồi, thì ta không còn lo sợ gì nữa, liền truyền lịnh cho tam quân tướng sỉ, sắp sửa chiến thuyền, vận tải lương thão, và trạch ngày đặng đại cử hùng binh, mà xông vào Giađịnh, và hội chư tướng lại bàn nghị.

Lúc bấy giờ có quan Tư-khấu là Nguyễn-Kiêm tâu rằng:

Tâu Bệ hạ, Bệ hạ muốn thâu phục Nam kỳ cho mau, thì xin bệ hạ nhứt diện đem chiến thuyền đi đường biển, vào cửa Cần-giờ mà đánh lấy Saigon, còn nhứt diện thì sai một đạo binh đi đường bộ, đánh lấy Khánh-Hòa, Bình-thuận, rồi thẳng vào Biên-Hòa và tấn vô Gia-định, đặng binh thủy binh bộ hai đạo hiệp lực cùng nhau, mà đoạt trại phá đồn, thì mới mau được thành công thắng trận.

Vua Tây-sơn Nguyễn-Nhạc nghe tâu thì lắc đầu và nói rằng:

— Nguyễn-Ánh có hai viên kiện tướng là Đổ-thanh-Nhơn với Châu-văn-Tiếp, nay Đổ-thanh-Nhơn đả chết rồi, còn Châu-văn-Tiếp cũng là một tướng có đủ mưu mô đãm lược, lại thêm vỏ dõng siêu quần, bây giờ đương trấn thủ Bình-thuần và Khánh-Hòa, là một chỗ đường sá gay go, núi non hiểm trở, mà Châu-văn-Tiếp hắn trấn thủ đó, thì chắc như một cái vạn-lý trường-thành, dẩu có mấy vạng binh ròng tướng giỏi, cũng không thế gì qua nổi.

Chi bằng ta đem thủy binh chiến thuyền nhắm ngay chỗ trung tim mà đánh vào, là chỗ Saigon. Nếu ta thâu phục đặng Saigon và các trấn ở miền hạ-du kia rồi, thì Châu-văn-Tiếp mất thế ỹ y, mất đường cứu viện, chừng ấy ta sẻ đem binh đánh ngay một trận, thì tự nhiên Bình-thuận, Khánh-Hòa sẻ thuộc về tay ta, bấy giờ cần gì đem binh đánh phá, cho tổn tướng hao quân, lại e không bề thắng nổi.

Nói rồi truyền lịnh cho các tướng sắp đặt chiến thuyền, qua tháng ba năm nhâm dần (1782) bữa nọ nhằm lúc ban mai, trời vừa rựng sáng, trống đã tàng canh, bổng thấy dưới trại thũy binh, xẹt ra một ánh hào quang chớp nhán, rồi phun lên một lằng khói mịt mù, kết nghe ba tiếng đại bác thần công, nổ lên đùng đùng dường như trời gầm sấm dậy, tức thì ba đạo chiến thuyền cã thảy hơn một trăm năm chục chiếc đều trương bườm bọc gió, chạy bổng ra khơi. Nguyển-Huệ lãnh năm chục chiếc đi tiền đạo làm tiên phong, Nguyển-Nhạc lãnh năm chục chiếc làm chĩ huy tư-lịnh. Còn năm chục chiếc thì Nguyển-Kim lãnh làm hậu đạo để theo tiếp ứng.

Khi ba đạo chiến thuyền ra Qui-nhơn, thì chỉ thấy trời cao lộng lộng, biển rộng thinh thinh, mấy trăm lá bườm đua nhau bọc gió phùng ra, kéo ba đạo chiến thuyền, trường trên ngọn sóng mà đi, dường như một con trường xà, uống éo quanh co, xem rất xuê xoang oai vỏ.

Lúc ra ngoài xa, ngó lại thành đô Qui-nhơn, thì thấy non xanh nước biếc, cây cỏ mù mù, thẵng rẳng liền với chơn mây, như một lằng mực đen của thợ trời dăng theo mé đất, còn ngó ra ba đạo chiến thuyền, lại thấy một đám cạnh bườm trắng nỏn, phất phất phơ phơ, xem như một bầy cò, trải cánh sè lông, bay trên mặt biển.

Khi ba đạo chiến thuyền của Tây-Sơn gần tới cửa biển Cần-giờ, thì có mấy chiếc chiến thuyền của Đức Nguyển-Vương đi tuần dương, dọc theo mé biển, thấy liền lập tức trở về, báo tin cho quan thủy sư Đô-đốc Huỳnh-thiên-Lộc hay, đặng tâu cùng chúa thượng.

Huỳnh-thiên-Lộc liền lật đật vào triều xin ra mắt Đức Nguyễn-vương và tâu cho ngài hay rằng, thuyền giặc Tây-Sơn đã gần tới Cần-giờ hãi khẫu.

Đức Nguyễn-vương nghe báo tin giặc, thì ngó châm chỉ Huỳnh-thiên-Lộc mà hỏi rằng:

— Quan Đô-đốc hay tin ấy đã bao giờ?

— Tâu chúa thượng, đội quân tuần phòng dọc theo mé biển, mới về báo tin ấy cho tôi hay đây, nên tôi vội vã vào tâu cho Chúa-thượng rõ.

— Số chiến thuyền của Tây-Sơn được bao nhiêu, Đô-đốc có rỏ chăng?

— Tâu Chúa-thượng, theo lời đội quân tuần thám nói cã thảy ba đạo chiến thuyền, độ chừng gần hai trăm chiếc.

— Trong ba đạo chiến thuyền ấy, có thuyền lớn mấy chiếc, và thuyền nhỏ bao nhiêu?

— Tâu Chúa-thượng, trong ba đạo chiến thuyền ấy, có sáu chiếc đại chiến hạm[4], còn bao nhiêu thì thuyền nhỏ.

Đức Nguyển-vương ngẩm nghĩ một chút rồi hỏi rằng:

— Trong ba đạo chiến thuyền ấy cã thảy độ binh ước được bao nhiêu?

Huỳnh-thiên-Lộc ngó xuống đất suy nghỉ một chút rồi đáp rằng:

— Tâu Chúa-thượng, sáu chiếc chiến hạm ấy, mổi chiếc độ chừng hai trăm binh, còn chiến thuyền nhỏ thì mổi chiếc độ chừng một trăm binh, cọng cả thảy chừng hai vạn binh bộ và binh thủy.

Đức Nguyển-vương nghe rồi liền hạ lịnh truyền cho quan thủy-sư Đô-đốc là Huỳnh-thiêm-Lộc phải hội chiến thuyền lại sông Nhà-bè và sắp đặt trận đồ mà cự chiến.

Huỳnh-thiêm-Lộc vâng lịnh tức thì lui về, rồi truyền các đạo chiến thuyền cả thảy là một trăm hai chục chiếc, kéo ra sông Tam-kỳ tại ngã ba Nhà-bè Sắp hàng hai bên mé sông, mổi bên sáu chục chiếc, trong đó có năm chiếc đại chiến hạm, một chiếc cũa Đức Nguyển-vương, một chiếc cũa Đô-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc, một chiếc của Mạng-Hòe[5] là người nước Pháp, lảnh làm Phó Đề-đốc, một chiếc thì Dương-công-Trừng lãnh làm trung Húy và một chiếc của Tôn-thất-Thiện lảnh làm Thủy-sư Đô-húy, còn năm chục chiếc phong-hỏa-thuyền, thì núp theo mấy ngọn sông nhõ, đều cụ bị rơm khô củi đuốt sẳng sàng, để phòng khi có dụng hỏa-công mà đốt thuyền quân giặc. Đâu đó bài binh liệt trận xong rồi, Nguyễn-vương bèn sai một đội tiểu-khoái-thuyền (là ghe nhỏ) ra tại Cần-giờ, thám dọ thuyền giặc hành động thế nào, đặng về báo tin cho lẹ.

Khi ba đạo chiến thuyền của Tây-sơn tới cửa Cần-giờ, bèn truyền lịnh cho các thuyền phãi đi mỗi hàng mười chiếc ngang nhau, rồi lần lần kéo tới, chừng vô gần Nhà-bè, thì hạ lịnh bủa ra mổi hàng năm chiếc lấn tới.

Lúc bây giờ ba chiếc đại-chiến-hạm của Đức Nguyễn-vương đậu giăng ngang nhau một hàng giửa sông Nhà-bè, chiếc của Nguyễn-vương ở giửa, chiếc của Đề-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc ở phía hửu, và chiếc của Tôn-thất-Thiên ở phía tã.

Còn hai chiếc chiến hạm nửa, một chiếc của Dương-công-Trừng, coi đạo chiến thuyền mé sông bên tã, và một chiếc của Mạng-Hòe, thì coi đạo chiến thuyền mé sông phía hửu.

Đức Nguyễn-vương và các tướng đứng trên chiếc chiến hạm của ngài, thấy thuyền Tây-Sơn bườm giăng trắng lốt, cột dựng như rừng, đã phăn phăn vô tới Nhà-bè, ngài liền kéo cờ lịnh lên, truyền cho hai đạo chiến thuyền hai bên mé sông, xông vào xáp trận, và năm chiếc đại-chiến-hạm đều phát súng thần công đùng đùng, bắn qua thuyền giặc.

Thuyền giặc thuận bườm xui gió, ùng ùng lước tới như bay, tướng giặc là Nguyển-Huệ liền truyền quân phát súng thần-công bắn lại một cách rất dữ dội, nghe thôi dậy đất long trời, khói bay mù mịt, và phân ra làm hai đạo, một đạo đánh phía tả, và một đạo đánh phía hửu.

Còn hai đạo chiến thuyền của Nguyễn-vương, lớp vụt hỏa hổ, lớp bắn tên ra như mưa, cã hai bên hổn chiến một trận rất dữ, độ hơn vài giờ, song đạo chiến thuyền của Nguyễn-vương, cự địch không nổi, lần lần kéo nhau thối lui.

Còn ba đạo chiến thuyền của Tây-Sơn, bây giờ đả vào hết cã trong sông Nhà-bè, và ùng ùng lước tới. Trận thế xem như một con lưởng-đầu-xà, hai đạo đi đầu bét ra hai bên, còn đạo chiến thuyền phía sau thì kéo dài một dọc, như hình con rắng hai đầu, đương xung xăng lội tới.

Đề-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc thấy thuyền Tây-Sơn ào ào tấn tới như giông, thì truyền cho các chiến thuyền, đều giăng một hàng ngang sông mà đón ngăng thuyền giặc, bấy giờ trận thế lại đổi ra một hàng « chữ-nhứt » mà chống lại với thuyền giặc rất dử dằn. Nào là lằng-tên, nào là mũi đạn, nào là hõa hổ, nào là thần công, hai bên bắn ra như mưa. Mặt trận chiến thuyền cũa Tây-Sơn cũng đổi lại, như hình « chử nhơn » rồi xông vào hãm trận một cách rất mảnh liệt. Cả hai hỗn chiến cùng nhau hơn trót giờ.

Đạo chiến thuyền của Nguyển-vương lúc nầy, chỉ có vừa đánh vừa lui, từ từ trở lại.

Lúc bây giờ Quan Phó-Đề-đốc Mạng-Hòe (Manuel) là người nước Pháp, ở trên chiếc chiến-hạm, đốc quân xốc tới xáp trận với thuyền giặc hơn trót giờ, bị thuyền Tây-Sơn phũ vây bốn phía, nhưng Mạng-Hòe không nao núng chút nào, cứ đốc suất thủy binh cự chiến rất kịch-liệt, chừng thấy thuyền mình đã hãm vào một cảnh ngộ nguy cấp, không thế cự nổi, quân sỉ trên thuyền lớp bị thương lớp bị tên, lần lần chết mất rất nhiều, còn binh thuyền của giặc, thì áp tới ào ào như sôi, phủ vây chặc cứng.

Mạng-Hòe nghĩ rằng: nếu để cho quân giặc lấy thuyền mà dùng, thì càng thêm ích lợi cho nó, thà là đốt thuyền mà tự-tử thì hay hơn. Nghĩ như vậy rồi vào trong lấy một bao thuốc súng, châm lữa bừng lên, đốt tàu cháy lên rần rần, rồi nhảy vào mà tự tử, chớ chẳng để quân giặc bắt mình và lấy tàu mà dùng làm lợi khí của nó.

Đức Nguyển-Vương đứng trên thuyền thấy lửa cháy rần rần, khói bay mịt mịt, kế nghe báo Đề-đốc Mạng-Hòe đốt tàu tự-tử và thấy tàu giặc lướt tới như giông, thì ngài đốc suất binh thuyền xốc ra tiếp chiến.

Đạo chiến-thuyền của Huỳnh-thiêm-Lộc và Tôn-thất-Thiện đánh không lại thuyền giặc Tây-Sơn, lớp chạy tảng lạc trong sông, lớp bị chúng nó đoạt thủ.

Lúc bấy giờ đức Nguyển-Vương mình mặc áo nhung-y,[6] đầu đội nón chiến lịp,[7] đứng trên thuyền lầu, đốc quân hỗn chiến, bỗng có một viên đạn bên thuyền giặc bắn qua, trúng cây cột bườm gãy xuống, rớt một bên ngài, các bình sỉ đều thất kinh.

Nhưng đức Nguyển-vương đứng trước thuyền nghiểm nhiên, không chút chi nao lòng động ý, tay cầm súng ô-thương bắn qua thuyền giăc, chết hết năm viên chiến tướng, thuyền giặc không dám xốc vào, rồi ngài truyền lịnh binh sĩ vừa đánh vừa thối lui mà chạy.

Khi thuyền của Nguyển-vương về tới sông Saigon, thì thuyền giặc ào ào lướt tới, không thế cự nỗi.

Đức Nguyễn-vương và các tướng liền lên bờ rồi kéo binh vào thành Saigon mà cự chiến, kế binh Tây-sơn kéo tới công thành rất dử, Nguyển-huỳnh-Đức và Nguyển-kim-Phẩm, đem binh lên mặt thành cự chiến, và các khẫu súng thần-công trong thành lúc bấy giờ cũng diệu võ dương oai, phun khói khạt đạn ra đùng đùng và gầm hét nghe đã long trời đội đất.

Nhưng binh Tây-sơn áp đến như kiến, lớp bắt thang leo thành, lớp lấy búa phá cửa, tràn tới ào ào như ngọn sóng hãi triều.

Nguyển-huỳnh-Đức đứng trên mặt thành, truyền quân bắn tên và lấy đá quăng xuống ào ào như mưa, hai đàng cự nhau hơn mấy ngày.

Bữa nọ Nguyễn-Huệ là tướng giặc Tây-sơn truyền cho đạo binh thần cơ đào lỗ dưới chơn thành, rồi đem thuốc súng đặt làm Hỏa-lôi-phục, đốt vở thành ra, và tấn binh lước tới; quân trong thành ngăn cự không lại, thế phãi lần lần rút lui.

Đức Nguyển-vương thấy thế nguy cấp, ngài liền rút gươm cởi ngựa xốc ra, đốc sức tướng sĩ cự chiến, nhứt diện truyền cho Tôn-thất-Thiện và các tướng tâm phúc đem cung quyến cũa ngài chạy trước về Mỷ-tho, rồi ngài và các tướng rút binh thối lui, vừa chạy vừa đánh, cách lui binh đều có hàng ngủ thứ tự.

Thành Saigon bây giờ đã thuộc về quân Tây-sơn chiếm cứ, và các đạo binh cũa Nguyển-vương, trong lúc nguy cấp, đều thối về các nơi, đạo thì trở lên Biên-hòa, đạo thì kéo về Bến-lức, còn theo ngài không đầy một ngàn binh bộ, rồi lần lần chạy xuống Mỷ-tho đặng tránh đở binh giặc.

Châu-văn-Tiếp đương trấn thủ Bình-Thuận nghe tin đức Nguyễn-vương thất thũ Saigon, liền hội các tướng văn võ bàn nghị, và nói rằng:

Giặc Tây-sơn ta xem có Nguyễn-Huệ là một tay vỏ công đệ nhứt, chiến lược phi thường, cách dụng binh khiển tướng rất tài, ít người đối địch lại nỗi, chớ chi ta không mắt trấn thũ chỗ nầy, thì ta đem binh vào mà cứu viện Saigon họa may mới đặng.

Quan Tiếc-chế là Tôn-thất-Dũ nghe Châu-văn-Tiếp nói, thì nhướng mắt nheo mày mà đáp rằng:

— Tướng-quân nói vậy là khi bọn tôi vô dụng hết sao? vậy để tôi đem một đạo binh vào Saigon đối địch cùng Nguyển-Huệ mà tiếp cứu đức Nguyển-vương cho.

Châu-văn-Tiếp thấy Tôn-thất-Dũ khẵn khái đòi đi, thì nói rằng:

— Nếu quan Tiếc-chế tình nguyện đem binh cứu ứng, thì tôi mới yên lòng, song quan Tiếc-chế có gặp đạo binh Nguyển-Huệ thì phải cẫn thận đề phòng, chẵng nên khinh suất mà hư việc, nói rồi hạ lịnh sai hai tướng là Trần-xuân-Trạch và Trần-công-Chương mỗi người lảnh một ngàn binh theo Tôn-thất-Dũ mà tiếp ứng, còn Tôn-thất-Dũ đem một ngàn binh đi tiên phong, rồi cã ba đạo tức tốc tấn vào Giadinh.

Khi Tôn-thất-Dũ kéo binh tới Giadinh, gặp một đạo binh của tướng giặc Tây-sơn là Phạm-Ngạn làm chức hộ giá cho Nguyển-Nhạc, Hai đàng liền xáp binh hỗn chiến một trận.

Tôn-thất-Dũ cởi ngựa tới trước mặt trận, đốc suất quân sĩ nỗ lực đánh giết binh giặc chẵng biết bao nhiêu, kế đạo binh của Trần-xuân-Trạch và Trần-công-Chương củng rần rần kéo tới tiếp ứng.

Tướng giặc là Phạm-Ngạn đánh không lại, liền thối quân chạy về, Tôn-thất-Dữ đắt thế rượt theo, khi chạy tới cầu Tham-lương,[8] con ngựa của Phạm-Ngạn thấy sông sâu cầu nhỏ, nên nhút nhát chẳng dám chạy qua, kế Tôn-thất-Dũ chạy tới chém Phạm-Ngạn một đao té nhào xuống ngựa mà chết, khi Nguyển-Nhạc nghe tin báo rằng: Quan hộ giá là Phạm-Ngạn bị tướng của đức Nguyển-vương là Tôn-thất-Dũ giết chết thì dậm chơn mà than rằng:

— Ta mất một tướng tâm phúc là Phạm-Ngạn, củng như gãy hết một cánh tay. Kế nghe quân báo nói rằng, có quân chệt Hòa-nghĩa-đạo theo phụ tá vơi binh Tôn-thất-Dủ rất đông, quân ấy toàn là thanh nhơn, trước đã qui hàng chúa Nguyễn, bây giờ nhập vơi đạo binh Tôn-thất-Dủ, mà cự chiến cùng binh ta.

Nguyễn-Nhạc nghe tin báo vậy, thì thạnh nộ nói rằng:

— Ta quyết bắt quân chệt khốn nầy mà giết hết không chừa một đứa, nói rồi sai Nguyễn-Huệ đem binh đánh với Tôn-thất-Dủ một trận rất dữ tại Cầu-Tham-Lương.

Tôn-thất-Dủ cự địch không nổi, liền rút binh chạy về Mỷ-tho, tuốt theo Nguyễn-Vương mà Hộ-giá.

Còn quân chệt Hòa-nghĩa-Đạo bị binh của Nguyễn-Huệ vây bắt được mấy trăm dẫn về Saigon, còn bao nhiêu thì chạy tãng lạc các chỗ.

Nguyễn-Nhạc liền sai một đạo binh đi truy tầm các xứ mà bắt, bất luận là chệt binh lính hay là chệt bán buôn, đều bắt luôn hết, cã thảy gần trót ngàn người, rồi truyện lịnh chém đầu quăng thây xuống nước, làm cho cã sông Nhà-Bè, thây nổi lêu bêu, hơn trót tháng trời, không ai dám vào sông mà câu tôm đánh cá chi hết, thật là một cuộc thãm trạng của người thanh khách rất ghê gớm biết là dường nào.

Lúc bấy giờ Đức Nguyễn-Vương và cung quyến chạy về Mỹ-tho, các tướng tùy tùng theo ngài là Nguyễn-huỳnh-Đức, Nguyển-Hữu-Thoại, Trần-xuân-Trạch, Tôn-thất-Dủ, Nguyễn-kim-Phẫm, và Dương-công-Trừng còn quân sỉ cả thãy chẳng đầy năm trăm.

Khi lấy được thành Saigon rồi, Nguyễn-Huệ liền đem binh rược theo Nguyển-Vương; Huỳnh-thiêm-Lộc bèn tụ tập các quân sỉ đem ra căng cự một trận tại Bến-Lức, nhưng binh của Nguyển-Huệ đông như kiến cỏ, còn binh của Huỳnh-thiêm-Lộc thì chĩ có ít trăm, nên bị Nguyễn-Huệ bắt đặng giết chết tại trận, rồi kéo binh rược theo đức Nguyễn-Vương. May gặp một đội quân của Lưu-thủ-Thăng, ở trấn Long-Hồ đem chiến thuyền qua đón rước Nguyễn-Vương rồi cã thảy chúa tôi chạy vào Rạch-giá.



   




Chú thích

  1. Người ngoài hay kêu Nam kỳ ta là đất Giadinh, nghĩa là kễ chung cả và Lục-tỉnh.
  2. Trước mắt các nước đánh nhau dành một con Hưu đời Tàu
  3. Nhưng mà ai giỏi được như Ngọa-long Khỗng-Minh đời Tam-Quốc?
  4. Đại chiến hạm là tàu lớn.
  5. Mạng Hòe theo tên tây là Manuel theo sử của Charles Maybon.
  6. Nhung y là áo để mặc mà đánh giặc.
  7. Chiến lịp là nón lớn để đội trong khi ra trận.
  8. Cầu Tham-lương ở trên Bà-quẹo thuộc về tĩnh Giadinh bây giờ.