Hạnh Thục ca/44
Giao diện
Khâm-sứ Pháp vào yết kiến bà Thái-hậu
Cải đồ ngõ nước mau yên,
Tham-bô[1] khâm-sứ xin lên tâu bày.
Sự này mới thấy xưa nay,
Chẳng cho thời sợ, biết rày làm sao.
Hãy cho, thử việc thế nào,
Minh-khiêm truyền chọn để vào triều thăm.
Ỷ không biết phép nước Nam,
Rằng: «Cho thấy mặt biết cam thửa lòng.
Gửi xin tạm cuốn sáo rồng.
Yết rồi bỏ xuống ngỏ cùng hỏi han».
Lạ-lùng diện mạo y quan,
Dạ-xoa mẽ dáng[2] kinh hoàng xiết mô.
Tiếng như chim chóc líu-lo,
Nguyễn Hoành[3] thông dịch phân mô mới tường.
Rằng: « Nguyên hai nước ước thương,
Chỉn vì lợi ích bảo an lâu dài.
Vì ngươi nghịch Thuyết cãi lời,
Vậy nên đến nỗi ương-tai rối loàn.
Nhờ nay Giám-quốc[4] rộng khoan,
Thành trì đất nước giao hoàn lại cho.
Nguyễn văn Tường vụng mưu lo,
Để cho đến nỗi côn-đồ nhiễu-nhương.
Muốn mau đặng nước vững-vàng,
Phải toan cánh lập quốc-vương mới đành.
Hoàng-trừ có đó sẵn dành,
Phụ truyền tử kế, chính danh phận rồi.
Cầm quyền sửa trị có người,
Đất thành giao lại, giữ coi hộ-phù.
Hàm-nghi xa lánh nơi mô,
Dẫu về thời cũng phong cho công hầu ».
Mấy lời nghe rõ trước sau,
Dẫu quan mình ấy phép tâu dường nào.
Hai quan[5] đồng tiếng gửi vào,
« Chúng tôi cùng dạ ước ao đêm ngày.
Quí quan phân vậy rất hay,
Nghiệp lành con nối, dân rày mới an ».
Trước nhờ thánh đức chủ-trương,
Sau nhờ Thái-hậu mối giường sửa-sang.
Bảo phù lại có quí quan,
Ắt là bình trị phục hoàn như xưa».
Thoảng nghe mọi nỗi bày thưa,
Phán rằng : « Đặng vậy cũng nhờ các ngươi.
Nay ta đều thảy y lời,
Đô thành khả kíp giao lai mã[6] chầy ».
Kiều-giang-công rước về đây,
Xung-khiêm tạm trú chờ ngày hồi đô.
Vì sao cướp đặng lại cho,
Vì dân mến chúa phải lo phục người.
Nền nhân cỗi đức tẩm bồi,
Dầu mà muốn hiếp nào trời khứng cho[7].
Rước lòng Pháp quốc hộ-phù,
Trước về ngõ đặng thăm dò dường bao.
Quan minh tề tập hội triều,
Kinh thành bèn khiến bàn giao tức kỳ.
Tôn thân có dạ kính vì,
Xem tình chẳng chút man-khi lộ mầu.
Sai quan các việc rõ tâu,
Xin hầu Từ-giá khá mau ngự hồi.
Cung đền chốn cũ trùng lai,
Nhện chăng, cỏ lấp, trần-ai bốn bề.
Nhà không khói lạnh ủ-ê,
Thoạt nhìn chi xiết thảm-thê ngại-ngùng.
Vì ai gây việc tai hung,
Thịnh suy đến đỗi nghĩ lòng thảm thương.
Nhà vàng lại đặng dựa nương,
Muôn thu trường hưởng thọ khang yên lành.
Kể chi những vật trọng khinh,
Đã đành thất-thoát lưu-linh còn gì[8].
Tham-bô[1] khâm-sứ xin lên tâu bày.
Sự này mới thấy xưa nay,
Chẳng cho thời sợ, biết rày làm sao.
Hãy cho, thử việc thế nào,
Minh-khiêm truyền chọn để vào triều thăm.
Ỷ không biết phép nước Nam,
Rằng: «Cho thấy mặt biết cam thửa lòng.
Gửi xin tạm cuốn sáo rồng.
Yết rồi bỏ xuống ngỏ cùng hỏi han».
Lạ-lùng diện mạo y quan,
Dạ-xoa mẽ dáng[2] kinh hoàng xiết mô.
Tiếng như chim chóc líu-lo,
Nguyễn Hoành[3] thông dịch phân mô mới tường.
Rằng: « Nguyên hai nước ước thương,
Chỉn vì lợi ích bảo an lâu dài.
Vì ngươi nghịch Thuyết cãi lời,
Vậy nên đến nỗi ương-tai rối loàn.
Nhờ nay Giám-quốc[4] rộng khoan,
Thành trì đất nước giao hoàn lại cho.
Nguyễn văn Tường vụng mưu lo,
Để cho đến nỗi côn-đồ nhiễu-nhương.
Muốn mau đặng nước vững-vàng,
Phải toan cánh lập quốc-vương mới đành.
Hoàng-trừ có đó sẵn dành,
Phụ truyền tử kế, chính danh phận rồi.
Cầm quyền sửa trị có người,
Đất thành giao lại, giữ coi hộ-phù.
Hàm-nghi xa lánh nơi mô,
Dẫu về thời cũng phong cho công hầu ».
Mấy lời nghe rõ trước sau,
Dẫu quan mình ấy phép tâu dường nào.
Hai quan[5] đồng tiếng gửi vào,
« Chúng tôi cùng dạ ước ao đêm ngày.
Quí quan phân vậy rất hay,
Nghiệp lành con nối, dân rày mới an ».
Trước nhờ thánh đức chủ-trương,
Sau nhờ Thái-hậu mối giường sửa-sang.
Bảo phù lại có quí quan,
Ắt là bình trị phục hoàn như xưa».
Thoảng nghe mọi nỗi bày thưa,
Phán rằng : « Đặng vậy cũng nhờ các ngươi.
Nay ta đều thảy y lời,
Đô thành khả kíp giao lai mã[6] chầy ».
Kiều-giang-công rước về đây,
Xung-khiêm tạm trú chờ ngày hồi đô.
Vì sao cướp đặng lại cho,
Vì dân mến chúa phải lo phục người.
Nền nhân cỗi đức tẩm bồi,
Dầu mà muốn hiếp nào trời khứng cho[7].
Rước lòng Pháp quốc hộ-phù,
Trước về ngõ đặng thăm dò dường bao.
Quan minh tề tập hội triều,
Kinh thành bèn khiến bàn giao tức kỳ.
Tôn thân có dạ kính vì,
Xem tình chẳng chút man-khi lộ mầu.
Sai quan các việc rõ tâu,
Xin hầu Từ-giá khá mau ngự hồi.
Cung đền chốn cũ trùng lai,
Nhện chăng, cỏ lấp, trần-ai bốn bề.
Nhà không khói lạnh ủ-ê,
Thoạt nhìn chi xiết thảm-thê ngại-ngùng.
Vì ai gây việc tai hung,
Thịnh suy đến đỗi nghĩ lòng thảm thương.
Nhà vàng lại đặng dựa nương,
Muôn thu trường hưởng thọ khang yên lành.
Kể chi những vật trọng khinh,
Đã đành thất-thoát lưu-linh còn gì[8].
- ▲ Tham-bô là tên người nước ta gọi ông Champeaux.
- ▲ Mẽ dáng là vẻ ngoài.
- ▲ Nguyễn Hoành阮宏, người Hà-tĩnh, chân thầy dòng ra làm thông-ngôn.
- ▲ Giám-quốc: nước Pháp.
- ▲ Hai quan đây là Nguyễn Hữu Độ và Phan đình Bình.
- ▲ Mã là tiếng cổ, nghĩa là chớ.
- ▲ Xem những lời ấy, đủ rõ là người mình lúc ấy không hiểu gì về cái chính sách thực-dân của Pháp.
- ▲ Nói đồ vật ở trong cung mất nhiều.