Hoàng Lê nhất thống chí/XIV

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

XIV

Dương Trọng-Tế từ khi ở làng Bình-vọng thu quân chạy sang Kinh-bắc, liền cùng cháu là Dương Vân học trò là Nguyễn Mậu-Nễ tính việc ở huyện Gia-lâm, và đắp đồn lũy để giữ mình. Khi ấy Trịnh-Bồng đã chạy đến làng Quế-ổ, có cho người đến vời Tế, Tế nói:

— Hôm nọ, khi phải đem quân vào giữ Thanh-hoa, trong phủ có Bùi Thì-Nhuận là hàng võ-tướng, Mai Thế-Uông là viên thổ-quan, Chúa không sai đến hai người ấy mà lại dùng ta để thử quân giặc. Đó là Chúa muốn đem ta mà cho giặc vậy. Bởi Chúa đãi người không thật, cho nên mới đến thế này. Bây giờ cùng Chúa mưu tính việc lớn, đã có một lũ võ biền ở làng Quế-ổ, vời ta làm gì!

Rồi Tế chối là việc quân khẩn-cấp không thể đến được.

Bấy giờ bộ-hạ của Tế cũng còn khá đông, Tế dùng ba nghìn quân chỉ chuyên về việc đắp lũy. Từ làng Như-kính đến làng Phú thị, dựng lên ba đồn, chia quân đóng giữ. Tế cho Vân làm Bình định tướng-quân, Nễ làm Tham-tán quân-vụ, đưa hịch các huyện bên cạnh, kể tội hoàng-thượng tựa vào Nguyễn Hữu-Chỉnh mà đuổi Chúa Trịnh. Lời hịch đại khái như vầy:

« Trong hồi Ngụy-Mạc, nhà Lê đã không còn nước. Nhờ có Thái-vương họ Trịnh giúp cuộc trung-hưng, công-liệt thấu đến trời đất, phúc-khánh để cho con cháu. Hai trăm năm nay, vua Lê chỉ việc khoanh tay rủ áo, Chúa Trịnh vẫn coi hết các chính-sự, thần dân trong ngoài cùng nâng-đội và cùng tôn kính, không ai dám có lòng nào.

« Tên giặc Nguyễn Hữu-Chỉnh vốn là một kẻ trốn mạng, thoát chết, liều-lĩnh mưu sự càn dỡ, dẫn giặc ngoài vào phá nước nhà, giết chủ cũ mà hại dân nước, xướng ra câu « diệt Trịnh », mượn cái tiếng « phò Lê »! tội-ác thật là tầy trời!

« Vua Chiêu-Thống tức là một người do quân Nam và Chỉnh lập lên. Ơn giặc lập mình, quên hết tình tám đời sư-phụ; đốt phủ đuổi Chúa, tựa vào sức một lũ loạn-thần. Đã không xứng-đáng làm vua, lấy gì tiêu-biểu cho nước! » « Thiểm »[1] vốn là viên đại-thần[2] của tiên-triều, nghĩa không thể nín, nay sắp dấy quân giết Chỉnh, tìm lấy người hiền trong hàng họ vua cháu Chúa mà lập lên, để nối cái nghiệp « duy đế duy vương » thủa trước. Vậy « thiểm » định ước đến ngày mồng một tháng này, kéo quân sang sông Nhị-hà. Hào-kiệt bốn phương người nào đồng-chí với « thiểm » đều nên đúng hẹn họp quân, hợp sức tiến đánh. Cuộc « phục chính » sao cho man sớm? ước « đồng hưu » còn giữ lâu dài ».

Thổ-hào ở vùng Từ-sơn, Thuận-thành thấy tờ hịch chỉ trích hoàng-thượng bằng giọng khinh-mạn, người nọ bảo người kia rằng: « Danh bất chính, ngôn bất thuận » thì « sự bất thành ». Chúng mình đều là bề tôi nhà vua, không nên theo hắn, tự mua lấy vạ vào thân.

Bởi vậy, chẳng một người nào hưởng-ứng với Tế, những kẻ đã trớt họp lại với Tế cũng đều rút về dần dần. Thành ra người giúp cho Tế mỗi ngày mỗi ít. Vả lại, trong bọn của Tế, Vân đã sẵn tính tàn-bạo, luôn luôn cướp bóc của dân. Nễ lại là kẻ ngu hèn, ương gàn, chẳng biết gì, cho nên ai cũng chán ghét.

Bấy giờ có người giám-sinh ở huyện Văn-giang tiếp được tờ hịch của Tế, tức thì chạy lên « cáo » ở kinh-sư. Hoàng-thượng xem thấy giận lắm, cho đòi Chỉnh vào triều và bảo:

— Trọng-Tế xuất thân ở hàng tiến-sĩ, cớ sao lại được vô-quân? Trước kia nó đã gọi ta là « vua tóc đỏ » và trước mặt sứ-giả sé tờ chỉ dụ của ta, nay nó lại viết ra bài hịch này, thật không kiêng-sợ gì nữa. Thằng giặc ấy, nếu không giết đi, thì bảo sao được kẻ khác? Vậy phải cho quân đi đánh ngay đi!

Chỉnh lạy hai lạy, vâng mệnh lui ra, rồi sai Nguyễn Như-Thái và Hoàng Viết-Tuyển lĩnh quân đánh Tế. Lúc sắp đi. Chỉnh dặn hai tướng:

— Trọng-Tế giữ mấy làng quê nhà, chẳng qua như con cáo già nương nhờ cái gò cũ. Thứ quân nhà quê của hắn điều-khiển cũng chỉ như một đàn dê chăn trong đồng ruộng, cầm roi mà đuổi là chạy, có cần gì phải đánh nhau? Các ông cứ việc khua trống mở cờ đến thẳng dưới lũy của hắn. Chắc hắn chỉ có hai cách: không hàng thì chạy. Hắn hàng thì điệu ngay về, không được cho quân cướp-bóc các làng các xóm Hắn chạy, cũng chẳng cần đuổi tới cùng, sợ rằng quân đi đến đâu gai-góc, sính ra đến đó. Tôi nghe người bên Kinh-bắc oán hắn đến xương, hắn chạy vào đâu, chắc không có ai chứa-chấp, sớm muộn thế nào họ cũng bắt hắn đưa đến cửa quân, mình chỉ có việc nhận lấy mà thôi.

Hai tướng vâng lệnh, dẫn quân sang sông, Tế nghe tin báo. liền gọi Vân, Nễ bàn cách chống-cự. Vân nói:

— Giả sử Chỉnh tự sang đây, cũng không phải kẻ đối-thủ với cháu, huống-chi mấy thằng tỳ-tướng lau-nhau, có làm trò gì? Cứ cho chúng nó đến để chịu chết. Chém đầu hai đứa ấy trước, rồi sẽ kéo tràn sang sông. Bắt Chỉnh, dựng nước, ở một chuyến này. « Quan chú » không cần lo gì.

Tế mừng lắm, vừa cười vừa nói:

— Cửa chùa đã có Hộ-pháp thiên-thần, ba nghìn thế-giới, mười lăm loài quỉ, tự-nhiên đều phải xa lánh. Đức Tế-tôn chỉ việc chắp tay ngồi trên tòa nhận lễ cúng dâng mà thôi.

Mậu Nễ cũng nói:

— Tôi xin sắp sẵn trâu rượu, chờ khi tới kính mở tiệc, uống cho thật say. Lúc ấy « quan thày » sẽ là Phật sống của nước Nam-Việt, trăm nghìn La-hán chắc đều phải hiện chân-thân để nghe những lời điểm-hóa.

Chú cháu thày trò tâng bốc lẫn nhau, chẳng ai để ý đến việc binh cả. Thình-lình thấy báo quân Thái, Tuyển đã đến, Tế bèn trao một thanh kiếm cho Vân và nói:

— Kinh Thư nói rằng: « Nãi ngôn để khả tích ».[3] Phải nhớ lấy nhé!

Vân lạy hai lạy, nhận kiếm lui ra, dẫn quân trèo lên mặt thành quanh-co nhìn ngắm Khi thấy quân của Thái, Tuyển có vẻ hùng-dũng, Vân mới lo-sợ. Vì rằng những quân của Vân mới mộ, đều là hạng quân ô-hợp, chưa qua trận mạc lần nào, tai mắt chưa quen chiêng trống cờ-sý, họ tưởng cũng như những đám đón thần rước Phật ở làng quê.

Sau khi Vân đã tựa lũy bày trận, Thái, Tuyển liền chia quân ra làm hai đạo cùng đánh ập lại. Súng bắn, đạn nổ, tiếng chuyển mặt đất, khói bốc mù-mịt cánh đồng. Quân Vân kinh sợ, tự nhiên tan vỡ, hãm lại không được, Vân cũng hốt-hoảng cuống-quít, không biết làm ra thế nào, liền cởi bỏ luôn bộ nhung-phục chạy trốn.

Tế ở trong đồn Lạc-đạo, cho người đến dò, thì Vân đã đi đằng nào rồi, hai đạo quân của Thái, Tuyển đương nhẩy qua lũy, xông vào chém giết lộn bậy.

Thám-tử lật-đật chạy về cáo cấp.

Tế nghe tin đó, gan ruột rối beng. Ngó đến bộ-hạ và quân lính, thấy tản-tác, mỗi người chạy đi mỗi ngả, Tế không biết tính cách nào, liền ngửa mặt lên trời mà kêu:

— Trời ơi, trời không phù-hộ Nhà Chúa, cho nên mới đến nỗi này!

Rồi Tế đem mấy tên thủ-hạ vượt lũy chạy trốn.

Gần tối, Tế đi đến làng Ngọc-xá, Vân vừa theo kịp. Đêm ấy, chú cháu vào ngủ một nhà trong làng, Vân bàn với Tế:

— Âu là hãy đến Quế-ổ vào ra mắt Chúa. Chúa vốn tin chú, thấy chú chắc mừng. Ở đó toàn là những hạng võ-biền, được chú là bậc văn-thần làm bậc mưu-chủ, cắt đặt công-việc, chắc họ phải theo. Nhân cơ-hội đó. mình sẽ thu-thập tàn quân để tính chuyến khác, Chẳng qua chỉ trong mươi ngày, thanh-thế lại dậy, và lại có thể đắc chí.

Tế nói:

— Không được! Ngày trước Chúa cho người gọi ta, ta chối không đến. Bây giờ vì bị thua trận mà đến, thì lấy cớ gì mà nói? Mà rồi những người ở Quế ổ còn coi ta ra gì! Ta với quận Nhưỡng đã có cộng sự và rất tương đắc. Nghe như bây giờ ông ta đương giữ Hàm-giang, hò gọi binh-chúng Yên Quảng, thủ hạ có tới vài vạn, thuyền-bè đóng đầy mặt sông. Ông ấy lại là một tay tướng giỏi, thạo việc hành-binh, ta nên mau mau đến thẳng Hàm-giang để cùng ông ta mưu-tính, rồi « khải » với Chúa dời giá về đó, chắc bọn Quế ổ đều phải đi theo, Lúc đó, bảo họ nổi ở xứ Bắc, cháu thì lĩnh một cánh quân hợp sức với họ và bảo quận Nhưỡng nổi ở xứ Đông, ta thì phò Chúa đốc chiến. Các đạo hẹn nhau cùng nổi một ngày. Việc lớn chắc có thể thành. Không như độ trước, trơ trọi có một toán quân, đến nỗi bị giặc đè cướp!

Vân nói;

— Phải lắm! Nhưng từ Ngọc-xá đến Hàm-giang, đường đất cũng xa-sôi, mà mình có năm, sau người lật-đật trên đường, cảnh tượng tiêu-điều, coi không vừa mắt. Vạn nhất giữa đường xẩy có việc gì, cả bọn đều tay không, lấy gì mà đỡ Vậy cháu xin đi, mộ lấy độ năm, sáu chục chiến sĩ có đủ khí giới tinh nhuệ, rồi thì mở cờ dóng trống mà đi; sớm lên đường, tối đến nơi, quận Nhưỡng thấy thế, cũng không dám khinh mình nữa.

Tế nói:

— Cũng phải. Vậy cháu nên gấp đi mộ quân lính, và tối hôm nay thì phải về đây.

Vân xin vâng lời,

Trong khi chú cháu bàn nhau, người nhà bên cạnh có đến nghe trộm và biết rõ chuyện, họ bèn đi báo với người ấp-trưởng. Khi Vân đi khỏi, người ấp-trưởng liền đem mấy chục đầy tớ cầm khí-giới và khiêng một cái cũi tre đến chỗ Tế ở, chỉ vào cũi và bảo với Tế:

— Xin mời quan lớn vào đây! Đã có quân của quận Tuyển đợi ở gần đây, đưa sang Như-kinh yết kiến cụ Bằng tiện lắm.

Tế vờ tỏ vẻ ngơ ngác và nói:

— Ông lầm rồi! Tôi là học-trò Hải-dương, trọ ở Như-kinh, ngẫu-nhiên gặp việc binh-hỏa, nên lại về Đông. Nào có việc gì với cụ lớn trong triều mà phải hầu-yết?

Người ấp-trưởng cười:

— Quan lớn đừng dùng mồm mép nói lừa người ta! Trước kia ngài đã bay lượn vùng Thăng-long, gầm-hét hạt Kinh-bắc, tự cho là cả nước Nam có một mình mình. Học trò Hải-dương đâu được có khí-thế ấy? Thôi hãy vào ngay trong cũi, để họ khiêng đi cho sớm! Xin đừng nói nhiều cho mệt!..

Rồi họ ôm Tế vào cũi, giải đến dinh quân của Nguyễn Viết-Tuyển. Những nơi cũi Tế đi qua, học-trò dân quê đứng chận bên đường chờ xem. Thấy Tế, có kẻ ngứa miệng gọi hỏi:

— Ông nghè! Cớ sao lại đến thế này? Tiếc rằng còn thằng vô-lại[4] vẫn được xổng vó.

Trước đó khi Tuyển trẩy quân, Chỉnh đã dặn bảo kỹ-càng. Lúc ấy bắt được Tế rồi, Tuyển liền rút quân về hết thẩy đúng như lời Chỉnh nói trước.

Các quan trong triều đến mừng ai cũng... nức-nở khen Chỉnh. Riêng Trần Công-Sán không khen và nói với Chỉnh:

— Không phải ông giỏi liệu định, chỉ là tại Tế vô mưu! « vật thương kỳ loại »[5], thực là một sự đáng buồn!

Hoàng-thượng nghe tin Tế đã bị bắt, liền sai thảo bản tội-trạng của Tế, cho nghiêm điển-hình. Chỉnh tâu:

— Xin kéo bỏ hắn ra ngoài cửa Bắc, chém cho chết đi, thế là đủ rồi, chẳng cần phải bẩn bút mực...!

Phan Lê Phiên nói:

— Với tên giặc khác cố-nhiên nên thế, Nhưng Trọng-Tế là hạng học hành thi đỗ, lại xuất thân trong bậc triều-sĩ, mà dám làm việc bạo-nghịch, thật là một kẻ có tội với danh-giáo Sao được chết cách im-lặng như vậy? Vậy nên vâng theo thánh-chỉ, nêu rõ tội ác của hắn, để cho kẻ khác coi đó làm gương, thì bọn càn dỡ mới sợ.

Rồi Phiên vớ bút thảo mấy câu « luận » đệ trình. Tờ « luận » đại-khái nói rằng:

« Làm tôi phản vua, trời đất không còn chỗ chứa; mang tên là giặc, người nước cùng được giết đi. Vậy hãy lột chức ông nghè, dâng tù nhà Học. Để tỏ rằng con người ấy đã bị tuyệt với sĩ-loại, khỏi làm nhơ cho Nho-lưu ».

Hoàng-thượng truyền « được ». Ngài bèn sai bọn Viết-Tuyển mặc nhung-phục, cầm kiếm, đưa Tế đến cửa nhà Thái-học bắt Tế phủ-phục chịu tội, rồi điệu đến trường thi võ mà chém.

Xong việc, hoàng-thượng thăng cho bọn Tuyển vào hạng « quận-công » và ban tiền-bạc thưởng các tướng-sĩ.

Nhân có việc ấy, triều-đình bàn nhau tâu vua xin thăng Chỉnh lên tước « một chữ »[6] và cho phép Chỉnh mở ra phủ quân Vũ Thành, đúc riêng ấn quân Vũ-thành, để viện Khu-mật thuộc về đạo quân Vũ-thành. Chỉnh bèn xin cho con trai tên là Hữu-Du làm chức doanh tướng, quản lĩnh toán quân Vũ-thành.

Hoàng-thượng ưng cho.

Từ đó, những việc thuộc về quân-sự, Chỉnh để mặc Du cắt đặt và Chỉnh lại mở tòa phủ ở về phía đông làm dinh thự của mình, thềm cao, nhà rộng, xa-sỷ rất mực, cho Du vào ở trong đó, để theo như lệ « Thế-tử ra phủ » của Chúa Trịnh ngày xưa.

Bấy giờ bộ-hạ của Chỉnh cậy thế, làm tràn, không có phép-tắc gì cả, bất-kỳ nhà nào, việc gì, hết thảy được dùng ấn của quân Vũ-thành, không ai còn dám trái lệnh, triều đình chẳng còn kỷ-cương gì nữa. Thấy vậy, lòng người chán-nản, kẻ thức-giả biết là sẽ loạn, có người đã phải cáo bệnh bỏ quan, tìm chốn nhàn-tĩnh ở các xó rừng góc biển để tránh tai-vạ.

Chỉnh cũng biết rằng công luận không ưa gì mình. Muốn mượn con đường khoa-mục, thu lấy nhân-tài, để mua lòng người, rồi sẽ tính cách bổ cứu về sau, Chỉnh bèn bàn với Lê-Phiên, tâu xin theo phép « thập khoa thủ-sỹ » của nhà Tống, mở riêng chế-khoa, sai các quan văn, từ hạng tam phẩm trở lên, ai biết người nào thì cử người ấy, rồi cho vào trong sân điện, đối đáp những lời « sách hỏi ».

Khi ấy danh-sĩ khắp nước, ai cũng nức lòng chờ đón. Những người đã làm quan rồi nếu có được « vời » cũng đều hăng-hái vào thi. (Bấy giờ là tháng giêng năm Đinh-vị, niên-hiệu Chiêu-thống). Riêng Ngô Tưởng-Đảo, một người được cử vào bậc hiền-lương phương-chính dâng biểu cố chối như vầy: « Nay tiếp sau cuộc tan-nát, những việc đáng cảm đáng than trong nước, kể không thể xiết... không phải chỉ có một đau hai khóc, ba thở dài »[7] mà thôi. Nếu không được người có tài sai khiến cuộc đời, thì không ai có thể chữa lại. Nhưng mà những hạng kỳ-tài, há phải đều do khoa-mục mà ra? Đời nếu có người, bệ-hạ dùng cách kính-lễ vời đón, như vua Thang đón Y-Doãn ở đất Sằn, vua Văn đón Lã-Vọng ở sông Vỵ ngõ-hầu họ mới chịu đến. Còn như chúng tôi lạm coi một chức cũng sợ chưa nổi, đâu dám làm nhơ việc long-trọng ấy, để hại cho cái sáng suốt trong việc cất-nhắc nhân-tài của thánh-triều? »

Lê Phiên nghe những câu ấy, liền nói tại triều:

— Hà-tất phải cần người lạ?

Đảo bảo riêng với Trần Công Sán:

— Sao lại bảo là « Hà-tất phải cần người lạ »? Hiện nay bên ngoài vẫn còn địch-quốc, bất nhật sẽ phải có cuộc binh-đao. Việc ấy chẳng lo, đi mở khoa thi để kén học-trò, cố làm ra vẻ thái bình. Sợ khi quân Nam lại ra, thì dùng cách gì chống lại? Đó là cái lo trước mặt.

Lúc ấy, số người dự cuộc « điện đình đối sách »[8] tất cả đến hơn hai trăm. Chỉnh muốn dùng cách « nhổ cỏ cả mầm » để thu cho hết danh-sĩ trong nước. Tới ngày truyền lô, triều-đình chỉ lấy hai người là Trần Bá-Lãm và Nguyễn Gia-Cát mà thôi. Chỉnh không bằng lòng như thế, cho nên, năm ấy lại xin thi ở lầu Ngũ-phượng, lấy bọn Bùi-Dương Lịch vào hạng tiến-sĩ xuất thân, tất cả 15 người. Nguyễn Khuê, là một người rất thân của Chỉnh ở vào thứ tư; kẻ trong người ngoài đều ngờ là có tư tùi.

Khi Chỉnh ở trấn Nghệ-an mới về liền được hoàng-thượng trọng-dụng, các bậc tôn-thần, cố tướng, không ai trên Chỉnh, vì vậy, Chỉnh làm việc gì đắc-chí việc ấy, không còn lúc nào nghĩ đến nước giặc và việc biên-thùy.

Những người cầm quân ở ngoài đối-địch với Chỉnh như quận Thạc ở xứ Đoài, quận Nhưỡng ở xứ Đông, Chỉnh đều coi thường. Mỗi khi trò chuyện với ai, Chỉnh vân thường nói:

— Nhưỡng tuy là giòng nhà tướng nhưng mà tính-tình thô-lỗ, không biết tướng-lược. Xưa kia còn ở trong cửa tiên-công[9], hắn vẫn coi ta là anh. Sau này vì sự gặp-gỡ khác nhau mới thành mỗi người một đường. Nhưng chắc Nhưỡng không dám tranh nhau với ta, ta cũng không nỡ đánh nhau với Nhưỡng. Vậy thì hãy nên để đó, không cần nghĩ tới. Còn đến quận Thạc thì là một viên võ-tướng chỉ khỏe về nghề chiến-đấu, không biết lâm-cơ ứng biến ra sao. Vả hắn nay đã tuổi già sức yếu cũng chẳng đáng sợ.

Chợt có người thân của Chỉnh tên là Lệ Vũ ở Sơn-tây về, nói với Chỉnh rằng:

— Quận Thạc trước đi Hưng-hóa chiêu dụ mấy viên quan Mường, mở lò đúc các binh-khí, hiện nay đã về, đồ-đảng có tới vài vạn, truyền hịch khắp Sơn-tây, hào mục các nơi đều đem thủ-hạ đi theo. Hắn đã hẹn ngày tiến vào kinh-sư. Nghe đâu hắn có sai người đem tờ mật-biểu dâng-lên hoàng-thượng, ông có biết không?

Chỉnh nói:

— Biết rồi! Trong biểu hắn tự nói hắn trước đã trái luật, vỡ quân, sau lại bảo-vệ kinh-thành không nổi. Nhờ được hoàng-thượng có lòng bao-dong, lại cho lĩnh chức trấn thủ, để có dịp bù lại lỗi xưa. Nay hắn cũng nhớ triều-đình, lại sợ ý ấy chưa được rõ ràng, thì kẻ không ưa sẽ nói này nói khác, rồi phao cho những tiếng xấu. Bởi vậy, hắn còn dùng-dằng chưa dám. Hoàng-thượng có đưa tờ biểu cho ta. Ta xét kỹ ra, ý hắn chắc không dám chống với ta, chỉ muốn hòa-giải mà thôi. Vì sợ ở ngoài lâu ngày cách-trở, có khi sẽ bị hoàng-thượng nhạt-nhẽo, mà đột-nhiên kéo về lại e ta còn ở triều, chưa biết lành dữ thế nào, cho nên hắn mới dâng tờ biểu đó để dò ý-tứ triều đình đó thôi, Ta cũng muốn xin hoàng-thượng giáng-chỉ dụ hắn, rồi nhân thể ta đưa cho hắn bức thư để hắn hiểu rõ ý ta. Nhưng chưa biết kén ai đi được. Ngươi đã biết rõ tình-hình của hắn, thì nên đi với sứ giả, mang thư của ta đưa cho hắn.

Lệ-Vũ xin vâng. Chỉnh bèn viết thư gửi cho quận Thạc, đại-ý nói rằng:

« Tướng-quân mới rồi đi lên thượng-du, xếp-đặt công-việc biên-thùy. Trèo đèo vượt suối, thật là vất-vả. Nếu muốn chuyên giữ một mặt để làm tường vách cho chốn Tây-thùy, thì « thiểm » xin tâu nhà vua, mặc ý tướng-quân tự-tiện. Nếu vì phải ở nhung-hàng lâu ngày, gân-sức suy yếu, muốn trút công việc cho nhẹ thì « thiểm » há dám không giúp tướng-quân chọn một địa-vị tốt-đẹp để cho tướng quân giữ trọn công-danh, làm bậc túc-tướng của tiên-triều? Trượng phu ở đời chỉ có hai đường « đi » và « đỗ ». Trong hai đường đó, cần phải sớm sớm chọn lấy một đường. Tướng-quân nên tính cho kỹ ».

Quận Thạc khi mới nghe tin nhà vua có chỉ cho đòi, đã hạ lệnh cho các tướng-tá kiểm-điểm binh mã chờ ngày lên đường. Lúc mở đến thư của Chỉnh tức-thì nổi giận bảo với Lệ-Vũ:

— Mày là người riêng của Nguyễn Hữu-Chỉnh phải không?

Sứ giả đáp thay Lệ-Vũ:

— Thư đó Bằng-công đã đệ ngự-lãm, người đưa thư do ở hoàng-thượng sai đi, không phải người riêng!

Quận Thạc nói:

— Tục-ngữ có câu: « con bò mới đẻ, không biết sợ cọp » ấy là Nguyễn Hữu-Chỉnh. « Mỗ » đây là hạng võ-nhân không biết văn-hoa. Việc gì cũng cứ thẳng băng mà làm. Nếu bất-như ý đã có thanh gươm. Nay « mỗ » nói cho các ông nghe: Nguyễn Hữu-Chỉnh trước đã phản nước nhà mà giúp Tây-sơn, sau lại nhị-tâm với Tây-sơn mà giữ xứ Nghệ, đến khi Tây sơn không dung, xứ Nghệ không ưa, mới quay về với hoàng thượng. Các vị văn thần ở tòa Nam-nha bị hắn lừa-dối, để cho hắn được dùng mệnh-lệnh nhà vua, sua dồn tất cả người nước. Trừ ra có Dương Trọng-Tế dám chống với hắn, nhưng về đại-nghĩa không thật rõ-rệt, cho nên hắn được có cớ mà nói. Còn đến quận Nhưỡng thì lại là người quen hắn, thành ra cứ phải lượn-lờ ở vùng Hàm-giang không dám vượt lên một bước, ngảnh về kinh-kỳ hỏi tội của kẻ bạn-tặc. Ngày nay tự nhận lấy việc đánh hắn, chỉ có mình « mỗ ». Các ông hãy về bảo với hắn rằng: « Hắn chỉ quen dùng trá-thuật lừa-dối người nước, nhưng mà lừa-dối thế nào được « mỗ. » Nay « mỗ » vâng chỉ về triều để hỏi tội hắn. Nếu có thể đánh nhau với « mỗ » thì nên ra thành mấy dặm cho tiện đối-thủ, khỏi để cung-khuyết kinh-sợ. Bằng không thì nên tự trói mình lại, rồi ra đợi tội ngoài cửa Đại-hưng.

Rồi đó quận Thạc tiễn sứ-giả về triều phục-mệnh và cho người đệ luôn tờ biểu « xuất-sư » vào triều dâng vua. Trong biểu đại-khái như vầy:

« Thần trước vâng mệnh ra trấn Sơn-tây, vừa đúng vào dịp Nguyễn Hữu-Chỉnh ở xứ Nghệ-an về chầu. Bệ-hạ vì Chỉnh có công tôn-phù, mới giao cho Chỉnh tất cả chính-sự nhà nước. Tiểu-nhân đắc-chí, dần dần tính đường làm xằng. Cứ như ý ngu của thần, thì Chỉnh không phải là bậc thuần-thần, chỉ là một tên quốc-tặc. Việc của hắn làm, giống như yêu-quái; bụng của hắn nghĩ, độc như hùm beo. Cúi xin bệ-hạ xét rõ, cho phép thần được chẹn hắn ngay từ lúc mới, để hắn khỏi làm càn dỡ về sau. Đó là cái phúc vô-cùng của xã-tắc vậy ».

Tiếp đó, quận Thạc đưa hịch đi khắp các lộ Quốc oai, Quảng-oai, kể các tội-ác của Chỉnh, gọi Chỉnh là tên giặc ở cạnh nhà vua, hẹn phải tức-khắc giết Chỉnh để quét cho sạch triều đình.

Chỉnh nghe quận Thạc đã dẫn quân đến, giận lắm, liền nói:

— Giặc già đáng giết! Không muốn hưởng cái công-danh ở thế-gian, lại muốn theo Dương Trọng-Tế làm ma « loạn đạo ».

Tức thì Chỉnh vào tâu với hoàng-thượng, xin sai bộ-tướng Lê-Duật đem quân chống-cự, rồi Chỉnh tự đốc đại quân tiếp chiến.

Duật đến Đại phòng, quân của quận Thạc cũng vừa tới đó. Giao-chiến một trận, quân Duật không thể địch nổi, bỏ cả khí giới mà chạy. Con trai quận Thạc tên là Gia-Vũ xin cứ thừa-thắng đuổi tràn để cho hậu quận của Chỉnh kinh-khiếp, thì chắc có thể toàn-thắng.

Quận Thạc không nghe và nói:

— Quân-lệnh sớm nay đã nói đúng trưa họp ăn ở làng Đại-phòng. Các quân đương lúc mệt đói, chờ đợi ăn uống. Giặc chợt kéo đến. Ta đốc quân lính chỉ đánh một trận, lui được chúng nó. Bây giờ truyền lệnh cho họ lần lượt ăn cơm là phải. Nếu lại sua họ tiến lên, tối nay mới đến kinh-thành, sợ rằng bên giặc đưa hết quân ra liều chết mà đánh, bấy giờ quân ta vừa đói vừa mỏi, chống lại sao nổi? Binh-pháp đã nói: « Quân đi còn cách trăm dặm mà vội xu lợi thì què thượng-tướng. » Đó là một việc nguy-hiểm. Hãy cứ nghỉ quân họp ăn. Ăn xong, thúc trống mà tiến, gặp giặc là đánh. Bụng no, khí khỏe, lo gì không được? Vả lại, ta bắt Nguyễn Hữu-Chỉnh như bắt một thằng trẻ con, có cần gì phải dùng gấp sức người, để cho quân-lệnh thất tín!

Quận Thạc bèn khua chiêng, ra hiệu cho quân tạm ngừng.

Lê-Duật chạy đến nửa đường, ngảnh lại phía sau, biết là quận Thạc không đuổi. Sợ Chỉnh tới nơi, sẽ bị quở phạt, Duật bèn thu quân lại quay trở lại. Quân của quận Thạc đương ngồi lên các khí-giới ăn cơm, hàng ngũ lộn-sộn, chẳng đâu vào đâu. Thấy quân của Duật ập đến, quân của quận Thạc không kịp ứng chiến, nhốn-nháo chạy ra tứ phía, quận Thạc đang ở trên đình Đại-phòng, lật-đật trèo lên mình voi, thủ hạ chỉ có mười người che-chở con voi, ra sức chiến-đấu. Quận Thạc ngồi trên bành voi, ném lao giết chết độ vài trăm người của Duật. Duật không dám tiến lại gần. Một lát, thấy Chỉnh đã dẫn đại-quân đến nơi, Duật liền « vẫy » quân xúm quanh voi của quận Thạc, rồi dùng sào trường, dáo dài mà đâm. Quận Thạc co cho con voi chạy lùi vào trong bãi cát, rồi mới xuống voi lên ngựa, múa đao chém vung tàn-tán, đi lại như bay. Gia-Vũ ở phía sau trận phi ngựa hô quân, xông lên phía trước, lăn sả vào đánh, giết được quân địch rất nhiều.

Một viên thiên-tướng của quận Thạc tên là Hoàng-Đăng họp được vài trăm tên lính tản-mác, cũng lại kéo vào hợp-chiến. Chỉnh ở đằng xa trông thấy, sợ quận Thạc được có người cứu, sẽ phi ngựa chạy thoát, hỏa-tốc « vẫy » quân Thiết-đột vây kín bốn mặt, chĩa vào ngựa của quận Thạc mà bắn. Ngựa què, hạc quận Tbị Duật bắt sống. Gia Vũ, Hoàng Đăng liệu chừng không thể chống lại, đều chạy vào nẻo Thượng-hiệp.

Trận này, quận Thạc tự đốc phiên-thần Hưng-hóa, hào-mục Sơn-tây, họp cả quân của hai trấn, lính tráng, khí giới, đều rất tinh-nhuệ. Sau khi bị thua một trận, các thứ đều bị thu-bắt không còn sót một tý gì. Bởi vậy, oai Chỉnh lại càng rung-động thiên-hạ.

Tin thắng trận về đến kinh-sư, triều-thần vào mừng. Hoàng-thượng gượng ra coi chầu. Rồi ngài nói riêng với Ngô Vi-Dực:

— Quận Thạc không phải là bạn-thần của trẫm. Hắn còn, đứa gian-hùng còn có e sợ. Chẳng may hắn chết, trẫm rất thương-xót, còn mừng nỗi gì!

Rồi đó, Chỉnh thu quân về và đưa quân vào kinh, tâu xin đem chém.

Hoàng-thượng bảo Chỉnh:

— Quận Thạc phần « nghĩa » nhiều, phần « lý » thì ít, cho nên « danh » với « thật » không xứng với nhau, hình-tích khó mà rõ rệt. Nay đã thua trận bị bắt, phép vẫn nên chém. Chỉ nghĩ khi ông chưa tới. Trọng-Tế thả quân vây bức kinh-thành, trẫm đứng trơ-vơ một mình trong điện, suýt nữa bị nạn « bất trắc ». Còn được đến nay, là công quận Thạc, Theo phép « bất nghì » đời xưa, thì trong cái chết cũng có phân biệt. Lòng trẫm thật không nỡ. Vậy nên bàn lại sao cho còn có chút tình đoái thương...

Chỉnh với quận Thạc, vốn xưa không có thù gì. Nay đánh một trận mà được, khí tức đã hả. Nhân nghe hoàng-thượng tuyên dụ, Chỉnh bèn xin giao triều-đình cùng bàn.

Ngự-sử Ngô Trọng-Khuê liền thảo một tờ nghị khác, trong có mấy câu nói rằng:

« Cầm quân chống lại mệnh-lệnh triều-đình, tội vẫn đáng giết; nhưng đem công mà bù với tội, thì sự chết cũng nên có lễ ».

Hoàng-thượng bèn sai đưa ra phía ngoài cửa tây, cho uống thuốc độc.

Quận Thạc cúi lạy hai lạy, bưng chén thuốc độc uống luôn một hơi, rồi chết.

Trong lúc quận Thạc bị giải về kinh, sĩ-dân kinh-đô xúm nhau lại xem. Quận Thạc có nói:

— Nhà ông tướng già Hoàng Phùng-Cơ vừa cha vừa con tất cả 6 người chết vì việc nước. Phải trái đã có công luận, còn sự nên, thua thì tại lòng trời. Ta không giết được Nguyễn Hữu-Chỉnh, Tây sơn chắc sẽ giết nó. Đạo trời báo ứng không bao giờ sai, tiếc rằng ta không kịp trông thấy mà thôi.

Sau khi giết được quận Thạc, Chỉnh tự nắm hết quyền-hành trong nước, hết thẩy công việc đều ở mình ra sự « dông dỡ » mỗi ngày một tệ. Từ đó lòng dân lìa bỏ, quan văn, quan võ ai cũng chán nản. Người nào theo lẽ công, giữ phép nước, đều bị tướng-sĩ của quân Vũ-thành quấy nhiễu. Người nào hăng bạo dám nói thì lại bị Chỉnh ngấm-ngầm làm hại, tai-vạ không biết thế nào mà lường Bởi thế, các quan ai cũng kiêng nói. Có người đã phải cáo bệnh, trả ấn mà đi. Rồi thì cường-hào ở các làng xóm, chỗ nào đoàn kết chỗ ấy, cướp bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài dặm, đều là « rừng cướp ». Hoàng-thượng rất lấy làm lo. Ngài bèn cho đòi quan thừa-tướng cũ là Bùi Huy-Bích, vào triều để hỏi về việc trong nước. Bích sợ Chỉnh, không dám bàn một câu gì, chỉ nói từ-tạ mà rằng:

— Thần may thi đỗ một chút, nhưng không có tài tế-thế kinh-bang. Chúa Trịnh ngày xưa nhắc cho thần vào chính-phủ, lính kiêu, dân oán, quân giặc lấn-cướp, thần không có một cách gì cứu-chữa. Cái tội làm lỡ nước nhà, thật không thể tránh. Nay bờ cõi đã nhất-thống, chính-sự ban đầu của bệ-hạ đã rất sáng suốt... Vậy xin hãy tìm người khác. Thần đâu còn dám làm nhơ triều-đình, để lỡ thiên hạ lần nữa! Cúi mong bệ-hạ thả cho thần về quê làng...

Lúc đã lui ra, Bích bảo với một người thân:

— Thiên-hạ loạn rồi! Ta cũng đi ngay từ giờ.

Rồi Bích đem cả gia-quyến xuống Đông.

Giữa hồi Bích đi, ở trấn Nghệ an có viên Đốc-đồng là Phạm Vỷ-Khiêm cũng tự bỏ quan vào vùng thượng-du huyện Thanh-chương, tính việc dấy quân cần-vương. Khiêm đã đưa hịch kể tội của Chỉnh, nhưng việc chưa đâu vào đân thì chết.

Bấy giờ trong bọn quan-lại tại chức, lại có một hạng nặng lòng công-danh, tự nhận cái việc dẹp loạn phò suy là việc của mình, lắm người cũng đã họp tập đồng-chí, chiêu-mộ nghĩa binh để hòng đánh Chỉnh. Rồi thì hào-kiệt bốn phương nhận được chỉ-thư, lần lượt theo lệnh nổi lên. Những đám như thế đâu đâu cũng có. Tựu-trung thanh-thế to lớn hơn hết, thì là Đốc-trấn Lưu-Tiệp[10] và Đốc-đồng Nguyên Hãn.

Tiệp và Hãn đều ở Cao-bằng, Tiệp có mật-chỉ của Trịnh-Bồng, Hãn có mật-chỉ của hoàng-thượng. Cả hai đều mộ phiên-mục trong trấn, khuyên họ giúp sức với mình, cấp-phát ấn-tín, sắm sửa khí-giới để chờ mệnh-lệnh đòi gọi. Bấy giờ một trấn chia làm hai đảng: Kẻ theo tiết-chế của viên Đốc-trấn thì không biết có viên Đốc-đồng; người theo ước-thúc của viên Đốc-đồng, lại không biết có viên Đốc-trấn Hai người ai ở dinh nấy, không hề hội họp với nhau, tiếng là đồng-liêu, thật ra, chỉ là cừu địch.

Muốn đánh lừa Hãn, Tiệp ngầm sai người thân-thuộc đem bọn thủ-hạ theo Hãn, rồi Tiệp giả cách cho người cầu hòa với Hãn và xin Hãn trả lại người phiên-mục đó. Hãn không biết mưu của Tiệp, bèn nhận cho người phiên-mục đầu hàng và cự lời xin của Tiệp.

Tiệp bèn đem quân vây đánh dinh Hãn. Người phiên-mục đó làm kẻ nội-ứng cho Tiệp. Trong lúc bất ngờ, quân Hãn rối-loạn, Hãn phải lật-đật tìm đường chạy trốn. Tiệp đuổi kịp và giết được Hãn. Vợ con Hãn ở trong nhà cũng đều bị hại tất cả.

Lúc ấy trong trấn Cao-bằng cực-kỳ lung-tung. Những kẻ phiên-mục ai giữ làng nấy, người nọ sắp quân đánh lộn người kia. Tiệp cũng không thể ngăn nổi.

Tiếp đó, Hà Quốc-Kỳ ở Lạng-sơn, Triệu Văn-Khương ở Thái-nguyên, Hoàng Văn-Đồng ở Tuyên-quang, Đinh Công-Hồ ở Hưng-hóa, và các tù-trưởng miền Tây-lĩnh cũng đều đua theo, đâu đó kéo quân chẹn các đường xá, chống lại mệnh-lệnh triều-đình, có khi họ đuổi cả viên Tổng-trấn.

Khắp trong bốn cõi, không còn chỗ nào yên-ổn.

Khi ở Cao-bằng mới nhóm lên cuộc tranh giành, Lưu-Tiếp, Nguyễn Hãn đều có sai trạm đưa thư về kinh cáo biến.

Tiệp bảo Hãn là giặc, Hãn lại bảo Tiệp là giặc, cả hai đều nói « hiện đã sai quân vây nã, chỉ trong mươi ngày, sẽ bắt được kẻ có tội ». Bình chương Phan Lê Phiên coi những chữ ấy giật mình mà rằng:

— Hai người đều là bậc triều-sĩ thành lưu, đi ra gánh việc phiên-trấn, đáng lẽ phải vì chuyện công mà quên chuyện riêng. Sao họ không chịu nén lòng theo nhau, lại làm đầu têu cho cuộc quấy rối? Đồng-loại hại nhau, thật là sự đại-biến! Đáng gở! Đáng sợ!

Sau đó lại có luôn mấy bức thư của các tổng-trấn mấy « lộ » Lạng, Thái, Tuyên, Hưng đưa về cáo-cấp, hoàng thượng bèn cho đòi Chỉnh vào bàn. Chỉnh thưa:

— Các trấn kéo quân đánh lộn nhau, cũng là thói thường của bọn tù-trưởng biên-thùy. Chỉ xin ban một bức thư, bảo rõ cho họ biết đường họa phúc, chắc họ phải theo. Giẹp yên bọn đó kể cũng không khó Duy có cuộc biến ở trấn Cao-bằng do các viên trấn-thần gây ra, tù-trưởng biên-thùy đều không đáng trách. Cái tội tự-tiện đánh nhau, giết nhau, triều-đình sẽ có phân-xử, vậy xin giao xuống công-nghị.

Quan Đồng-Bình-chương Trương Đăng-Quĩ và quan Tham-tri Nguỵễn-Diệu đều xin kíp chọn người khác lên thay, để coi việc trấn và hạ chiếu-chỉ bắt Tiệp và Hãn về triều, may ra cuộc loạn mới yên. Phan Lê-Phan nói:

— Phải đấy! Mấu quánh, đốt rắn, phải dùng đồ sắc! Cái chức coi cả một trấn không nên coi là dễ dàng, ai cũng cai-trị được.

Quan Đồng-Bình-chương Trần Công-Sán tiếp:

— Trận loạn Cao-bằng hồi xưa, viên cố-đại-thần là Nghĩa-thành-vương phải lên tận nơi chiêu dụ. « Người » ở trấn ấy 7 năm, dân mán mến phục. Khi « người » mất tại dinh quan, trong trấn nghỉ mấy phiên chợ, và lập ngôi đền thờ « người ». Nay nếu giao cho con « người » hoặc bọn bộ-thuộc của « người » lên đó, chắc sẽ được việc.

Mọi người khen phải. Hoàng-thượng bèn cho Nguyễn Đình-Tố làm chức Đốc-trấn, Nguyễn Huy Túc làm phó Đốc-trấn, rồi ngài hạ lệnh giục hai người ấy lên đường, Tố nói:

— Cha thần đẻ ở Cao-bằng, mất ở Cao-bằng. Thần cũng đẻ ở Cao bằng, nay lại lên đó, sau này ra sao, có thể biết trước được rồi. Vậy xin cho thần được chậm mười ngày, để thần thu-xếp việc nhà.

Hoàng-thượng ưng cho.

Khi Tố lên đến đầu hạt Lạng-sơn, nghe tin Hãn đã bị bại, Tố giật mình nói:

— Đáng thương thay! Chết cũng có số. Song cũng là lỗi tại ta chậm quá!

Rồi Tố lập tức đốc trạm đi lên. Thấy có trạm báo quan Đốc-trấn mới là Nguyễn Đình-Tố đã đến, tù trưởng các nơi vui mừng chờ đón. Lúc Tố đến trấn Cao-bằng, Lưu Tiệp còn đóng cửa thành, đánh nhau với toán tàn-quân của Hãn. Tố theo mệnh vua tuyên-bố uy-đức, bắt họ phải giải binh. Rồi Tố xếp đặt các việc, trong trấn lại yên.

Một hôm, sau khi vào thăm đền Nghĩa-thành-vương, Tố bảo với Nguyễn Huy-Túc:

— Tôi nay sắp sửa đi theo tiền-nhân, trách-nhiệm biên-khổn giao phó mặc ông, rồi đây sẽ có việc lớn. Trấn này thông với đất Tàu, trước kia tôi đã đi sứ hơi thuộc đường lối, tiếc rằng không ở đây nữa. Ông còn ở lại, hãy nên gắng-gượng gánh lấy.

Tố lại ngảnh sang bọn phiên-trưởng và nói:

— Sau khi ta đi, các ngươi phải nghe lệnh quan Phó-trấn. Chớ như ngày nọ gây ra biết bao nhiêu việc, sau này chắc có vạ lớn.

Mọi người đều lấy làm lạ mà hỏi tại sao.

Tố đáp:

— Việc đó rất khó nói.

Chiều hôm ấy, Tố về dinh quân rồi chết.

Huy-Túc một mặt sắm-sửa các việc tang-ma, một mặt viết thư về triều báo cáo hung-tin của Tố.

Triều đình cử Túc nối Tố lĩnh chức Đốc-trấn Cao-bằng.

  1. Tiếng tự xưng bằng Hán-văn, người xưa hay dùng. Nghĩa gần như « tôi ».
  2. Tức là quan Ngự-sử.
  3. Nghĩa là lời mày đến thành công.
  4. Chỉ vào Dương-Vân.
  5. Giống vật tự hại lẫn nhau.
  6. Theo quan-chế của nhà Lê, tước một chữ cao-quí hơn tước hai chữ. Ví như Bằng-công thì to hơn Bằng-trung-công.
  7. Nói theo lời của Giả-Nghị than về tình-hình nhà Hán ronh đời Văn-đế.
  8. Đối đáp những câu hỏi của bài văn-sách, tại sân triều.
  9. Chỉ vào quận Huy.
  10. Có chỗ chép là Lưu-Côn