Luật Quyền tác giả Hợp chúng quốc Hoa Kỳ/Chương 3/Điều 302

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Luật Quyền tác giả Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
của Chính phủ Hoa Kỳ, do Cục Bản quyền tác giả dịch
Điều 302. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả: tác phẩm được sáng tạo vào hoặc sau ngày 1/1/1978

Điều 302: Thời hạn bảo hộ: các tác phẩm được sáng tạo vào hoặc sau ngày 1/1/1978

(a). Quy định chung: quyền tác giả đối với tác phẩm được sáng tạo vào hoặc sau ngày 1/1/1978, tồn tại từ ngày tác phẩm được sáng tạo và, ngoại trừ trường hợp quy định tại các Khoản tiếp theo, kéo dài một thời hạn là cả cuộc đời của tác giả và 70 năm sau khi tác giả chết.

(b). Các tác phẩm đồng tác giả: trong trường hợp tác phẩm đồng tác giả được sáng tạo bởi hai hay nhiều tác giả mà không thuộc trường hợp sáng tạo tác phẩm do thuê mướn, quyền tác giả kéo dài một thời hạn là cả cuộc đời của tác giả cuối cùng còn sống và 70 năm sau khi tác giả còn sống cuối cùng đó chết.

(c). Tác phẩm khuyết danh, ký danh và sáng tạo do thuê mướn: đối với các tác phẩm khuyết danh, ký danh hoặc sáng tạo do thuê mướn, quyền tác giả kéo dài một thời hạn là 95 năm kể từ năm công bố lần đầu của tác phẩm, hoặc một thời hạn là 120 năm kể từ năm sáng tạo tác phẩm, tuỳ thuộc vào thời hạn nào kết thúc trước. Nếu trước khi kết thúc các thời hạn đó mà xác định được một hoặc nhiều tác giả của tác phẩm khuyết danh, ký danh được phát hiện theo tờ khai đăng ký được thực hiện đối với tác phẩm đó theo Khoản (a) hoặc (d) của Điều 408, hoặc theo hồ sơ quy định tại Điểm này, quyền tác giả đối với tác phẩm sẽ kéo dài một thời hạn theo quy định tại Khoản (a) hoặc (b), trên cơ sở cuộc đời của tác giả hoặc các tác giả đã được xác định. Bất kỳ người nào có lợi ích từ quyền tác giả đối với tác phẩm khuyết danh hoặc ký danh có thể vào bất kỳ thời điểm nào chứng nhận, trong các hồ sơ được lưu tại Cục Bản quyền tác giả cho mục đích này, một bản tuyên bố chỉ rõ một hoặc nhiều tác giả của tác phẩm; bản tuyên bố này cũng sẽ chỉ rõ người làm bản tuyên bố, phạm vi lợi ích của người này, nguồn của thông tin được ghi nhận và các tác phẩm cụ thể chịu ảnh hưởng, và sẽ phải tuân thủ theo các yêu cầu về hình thức và nội dung mà Cơ quan đăng ký quyền tác giả sẽ quy định trong quy chế.

(d). Các ghi nhận về việc tác giả chết: Bất kỳ người nào có lợi ích trong quyền tác giả có thể vào bất kỳ thời điểm nào ghi nhận tại Cục Bản quyền tác giả một tuyên bố về ngày chết của tác giả của một tác phẩm được bảo hộ hoặc tuyên bố rằng tác giả đó vẫn còn sống vào một ngày cụ thể nào đó. Tuyên bố này sẽ chỉ rõ người làm bản tuyên bố, phạm vi lợi ích của người này và nguồn của thông tin được ghi nhận, và phải tuân thủ theo các yêu cầu về hình thức và nội dung mà Cơ quan đăng ký sẽ quy định trong quy chế. Cơ quan đăng ký sẽ lưu thông tin ghi nhận hiện tại liên quan đến cái chết của tác giả tác phẩm được bảo hộ, trên cơ sở những tuyên bố được ghi nhận này và các dữ liệu bao hàm trong bất kỳ ghi nhận nào của Cục Bản quyền tác giả hoặc các nguồn tham khảo khác, trong phạm vi mà Cơ quan đăng ký xét thấy có thể thực hiện được.

(e). Giả định về cái chết của tác giả: sau thời hạn 95 năm kể từ năm công bố lần đầu tác phẩm hoặc thời hạn 120 năm kể từ năm sáng tạo tác phẩm, tuỳ thuộc vào thời hạn nào kết thúc trước, bất kỳ người nào mà nhận được từ Cục Bản quyền tác giả chứng chỉ xác nhận là các ghi nhận quy định tại Khoản (d) không chỉ rõ là không có một điều gì để khảng định rằng tác giả của tác phẩm đang còn sống hoặc đã chết chưa được 70 năm trước đó, thì người này được hưởng quyền lợi từ giả định là tác giả đó đã chết ít nhất là được 70 năm. Dựa vào thiện trí trên cơ sở của giả định này sẽ là cơ sở đầy đủ để biện minh trước bất kỳ một khiếu kiện vi phạm theo Điều luật này.