Bước tới nội dung

Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhì/Mỹ Tho

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Mỷ-Tho 卽古定祥

Mỷ-tho phong cảnh thi:

Phong cảnh vui xem hạt Định-tường,
Tàu xe đông đảo mối đầu đường.
Cồn-rồng đất nổi che tiền diện,
Cổ-lịch đồn xây trấn viển phương.
Phú nử hào nam nơi tổng lý,
Cử nhơn tấn sỉ chốn khoa trường.
Thuần lương tập tục dân no đủ,
Hóa hóa sanh sanh lợi ruộng vườn.

Mỷ-tho nguyên tỉnh Định-tường, Phía tiền một dảy phố phường quá đông.
Trên bờ hàng hóa thạnh sung, Dưới sông ghe đậu chật cùng ngoài trong.
Sông con giáp nước Sân-trông, Truy nguyên thuở trước bởi ông Vân-hầu.
Đào thông theo giặc cho mau, Quân Mên thất thế hàng cầu nhiêu sanh.
Một đầu giáp lại Bến-tranh, Một đầu giáp lại thấu ranh Vủng-gù.
Song mà hồi ấy chỉnh tu, Để lo phòng bị tuần du tặc thuyền.
Hẩy còn chật hẹp chưa liền, Gia-long nhứt thập bát niên thêm đào.
Từ sau thuận tiện ra vào, Ghe buôn tự thích chở trao dể giàng.
Chạy dài theo mé đại giang, Phía trên giáp với An-giang Vàm-hàng.
Cù-lao trước mặt án ngang, Chữ kêu Long-đảo rở ràng trời sanh.
Khen ai cũng khéo đặt danh, Khi xưa mới nổi như hình ngọa long.
Lưu truyền tiếng gọi Cồn-rồng, Để làm bình tế ngoài vòng Mỷ-tho.
Qua sông Rạch-miễu có đò, Một ngày hai buổi ra vô hoài hoài.
Cồn-rồng nay cất lầu đài, Một tòa cao thấp trong ngoài làm nhơn.
Để nuôi tàng tậc bịnh nhơn, Không cho chung chạ sợ cơn nhiểm truyền.
Nên làm ra một cỏi riêng, Năm thìn trận bảo ngửa nghiêng tanh bành.
Ơn nhờ Thượng-đế háo sanh, Mười phần hao một chẳng đành tang hoan.
Rộng dài bề dọc bề ngang, Mười lăm phần tổng khắp ngàn điền viên.
Thổ nghi vườn ruộng tương liên, Bông hoa quả phẩm thường xuyên thiếu gì.
Cá tôm sò ốc đâu bì, Cũa nơi sông biển lắm khi dư dùng.
Tốt tươi bắp đậu các giồng, Khoai lang Trấn-định người trồng vạn thiên.
Cải rau bông thuốc khắp miền, Đồ làm trong rẩy xóm riềng nhặc sai.
Bí thời tiếng bí Ba-lai, Mía thời Gò-các ai ai đẹp tình.
Hòa-quới với tổng Hòa-thinh, Dừa khô thổ sảng có danh Nam-kỳ.
Cây dừa chẳng bỏ món chi, Niên niên thạnh lợi nhiều khi dân nhờ.
Trời sanh vật giữa cỏi bờ, Ở đâu đã sẳng tư cơ cho người.
Cái-váng kễ biết mấy mươi, An-hồ Tân-thạch khô tươi dập dồn.

Tư bề Thừa-đức nội thôn, Đất trồng dưa-hấu ngọt ngon quá chừng.
Vật hèn cây lát cây đưng, Cũng là giúp đở nhơn dân lợi dùng.
Thẳng theo bờ ruộng các đồng, Chưng-bầu làm cuổi sẳng trồng nơi nơi.
Cây bần tạp dụng để chơi, Cù-lao mé nước mổi nơi kẹo lền.
Chữ kêu Thủy-liểu tốt tên, Ghe hay hứng mát dựa bên gần bờ.
Trang nghiêm một sở nhà thờ, Lầu cao vọi vọi đến giờ chuông rung.
Người trong đạo Chúa thạnh sung, Đến tuần xem lể khiêm cung kỉ càng.
Nhà-thương Nhà-phước bĩ bàn, Phân ra đâu đó lớp lang ê hề.
Bên phang bên niếc chĩnh tề, Các dinh các sở tư bề phân minh.
Điều-hòa Mỷ-chánh thần đình, Qui mô tráng lệ công trình biết nhiêu.
Châu-thành chợ nhóm dập dều, Xe người xe ngựa thảy đều có đưa.
Buổi mơi buổi tối buổi trưa, Tàu-đò xe-lữa rước đưa liền liền.
Đầu đường sáu tỉnh mối giềng, Tiệm ăn tiệm ngủ khỏe yên bộ hành.
Thiệt là đông đạo hữu danh, Tứ phương lai vản dinh sanh điệp trùng.
Người xưa chữ nghĩa mẩn thông, Kinh-Hương, Hạp-Trí hai ông thanh nhàn.
Đều là thuở cựu làm quan, Qua đời tân cũng yêu sang hai ngài.
Hương, làm Quản-hạt lâu dài, Trí, làm Phủ-sứ ra ngoài Thừa-thiên.
Đã lâu về chốn cữu tuyền, Tiếc thương danh giá lòng phiền cám trông.
Học trường chổ rất rộng trông, cũng là trường lớn ở trong Nam-kỳ.
Công phu ăn học cập kỳ, Có khi du tức có thì tàng tu.
Ông Cô-Tên (Cotel), tánh cần cù, Bề trên cai-quản mấy thu trường nầy.
Trong ba món chữ đều hay, Mình làm sư phạm nặng dày công lao.
Tác thành sỉ tữ biết bao, Gắn đua hậu tấn thấp cao bôn trì.
Nước nhà khen ngợi yêu vì, Phải trang sơn đẩu oai nghi làm thầy.
Nữ trường thiết lập mới đây, Dạy vừa thêu tiểu vá may đủ nghề.
Tập binh trại cất chĩnh tề, Chổ xưa thành củ nay nghè bình trang.
Mỷ-tho cũng xứ Trường-an, Phong lưu sỉ nữ lịch sang trong đời.
Hềm vì đường sá hẹp hòi, Xe đi hứng mát chiều trời không nơi.
Hoặc khi lể lớn ăn chơi, Đủ phường dinh dãy đủ nơi quê mùa.
Các làng đều có ghe đua, Điều-hòa Mỷ-chánh ăn thua nhứt nhì.
Hai làng roi dấu lể nghi, Lắm người thuở cựu học thi bộn bàn.
Nhiêu-Ninh, Học-Lạc, Nhiêu-Phang, Nho y cầm tữu phải trang học trò.
Lạc, Ninh, thôi đã rủi ro, Còn Phang, ở lại dũi co theo đời.
Dặm tình nhớ trước vơi vơi, Khi khuyên chén rượu khi mời câu thi.
Thầy-Tuấn, cũng tay lương y, Thuốc noi vương đạo Hiên, Kỳ, truyền tôn.
Trụ trì ông Pháp-sư Tồn, Tu hành có phận khéo khôn nhiều tiền.
Gặp thời thêm lại gặp duyên, Thiện nam tín nử người siêng phục tùng.
Bến-tranh, Cai-lộc, Sân-trông, Cổ-chi, Trấn-định, đất sung người hào.
Cao-hoàng-đế, thuở ra vào, Đương khi kình ngạt ba đào phiến dương.
Nhờ dân Tam-phụ thạnh cường, Phá Tây-sơn tặc chiến trường lập công.
Đông-sơn nghĩa lữ xưng hùng, Ngài đi chiêu mộ về dùng trảo nha.
Chổ à mủi giặc vô ra, Thói dân địch khái trẻ già thẳng ngay.

Tập quen roi đến đời nay, Huân, Lân, khởi nghĩa người say tấm lòng.
Cả thảy nghe theo rùng rùng, Dẩu ra khổ não khốn cùng cũng ưng.
Bất hàng cam đoạn Tướng-quân, Ông Huân thủ bút khi vưng chịu hình.

翁勲手筆詩云 
汗馬間開為國仇祗因兵罷致身休 
英雄莫把贏輸論宇宙長看節義留 
無怖已驚強敵魄不降甘断將軍頭 
當年萩水波流血龍島秋風起暮愁 
紳士同步韻 
興戈孰與子同仇空使英雄事㭟休 
義氣心為君國計敗成名共海山留 
孤忠直射龍門上一死應標虎榜頭 
萩水天晴猶𫇰景風波起處動餘愁 

Cho hay quí tiện nhục vinh, Đều chôn xuống đất mà danh khác nhiều.
Bại thành cũng tiếng tạc biêu, Bấy lâu nghe đã quạnh hiu cang tràng.
Dân cư rẫy ruộng an nhàn, Miễu chùa lể nghĩa tục làng lịch xinh.
Bà-tám-Thơm, rất hiền lành, Tại làng Lương-phú Bến-tranh quê nhà.
Lưu truyền phước đức thành gia, Nay còn cháu chắc trẻ già đều nên.
Tứ bàn xóm dưới xóm trên, Những người danh giá đôi bên còn nhiều.
Chữ nho gốc hẩy chuộng yêu, Dẩu nghèo không bỏ mỷ miều thi thơ.
Có chùa Sắc-tứ cựu cơ, Nơi thôn Thạnh-phú bây giờ đương sung.
Long-hưng Cả-Lựu vợ chồng, Hơn ba ngàn bạc của dùng bố thi.
Cúng thêm ông Phật từ bi, Đúc ngoài Hà-nội tứ vi thết vàng.
Rước về công khó gian nan, Trí nơi chùa ấy ngồi bàn chánh trung.
Hẩy còn nhiều kẻ có lòng, Thiện nam tín nữ của chung kỉnh thành.
Trùng tu nay đã lạc thành, Từ rày Sắc-tứ hiển vinh cữu trường.
Kim-sơn một chỗ thôn hương, Lắm nhà hảo hộ đống lương roi còn.

Phong lưu cốt cách chưa mòn, Tinh anh tú khí sông non tạo thành.
Có ông Cả-Dám hiển linh, Chư thôn bàn cận húy danh hết lòng.
Ngày nay Phạm Nguyễn hai dòng, Ở trong làng ấy thạnh đông cữa nhà.
Phạm thì ở ấp Mỷ-hòa, Đời đời lương thiện tên là Tổng-Diêu.
Sanh ra Phó-Túy mỹ miều, Làm tôi giúp nước công nhiều bền dai.
Nguyễn thì ở ấp phía ngoài, Là ông Cựu-Trí lâu dài hưng long.
Em là Nhiêu-Chấc Nhiêu-Phong, Ba nhà con cháu hiệp sung nhãn tiền.
Nhiêu-Phong phước đặng con hiền, Là Cai-tổng-Hiến dạ chuyên thanh cần.
Ông Lê-văn-Duyệt song thân, Mã chôn nguyên ở Long-hưng chánh làng.
Vuôn tre yêm ái tứ bàn, Trong xây vôi đá trước hàng mộ bi.
Trải bao vật oán tinh di, Tục kêu Lăng-cố tri tri chẳng mòn.
Sanh con đích đáng ông con, Miễu lăng Gia-định tích còn tạc biêu.
Mấy người cháu, tệ quá đều, Tự điền hương hỏa lợi nhiều ngàn trăm.
Ăn chơi oan đãng cố cầm, Đến ngày kị lạp vô tâm kỉnh thành.
Vậy nên sự nghiệp tang tành, Từ rày hương chức bao đành lấp ngơ.
Tu bồi Lăng-cố mộ cơ, Ta làm phải nghĩa cỏi bờ chứng tri.
Mỷ-tho nhà tốt thiếu chi, Nhà Ngô-ngọc-Lựu cất thì mới đây.
Vững bền nền đúc cao xây, Gỗ đều danh mộc thêm cây trắc toàn.
Xa cừ ốc cẩn rở ràng, Bao lam mấy bộ khéo càng không sai.
Tốn hao năm vạn đồng ngoài, Lưu truyền nghiệp cả lâu dài nước non.
Ngô-ngọc-Quan, ấy là con, Nay làm Cai-tổng tuỗi còn thanh xuân.
Việc công giữ nết liêm cần, Nội Thuận-bình tổng xa gần ngợi xưng.
Thảo ngay không mất bỗn căng, Chắc-là chĩ nhựt cao thăng có ngày.
Ông Ba-Thận, tánh rất hay, Chí vui y đạo làm thầy có danh.
Gặp hồi phong tục cãi canh, Thú vui ẫn dật nhàn thanh ruộng vườn.
Sùng nho trọng đạo thường thường, Hiếu trung hai chữ chủ trương gia đình.
Con là Ba-Thảo hậu sanh, Cầm thi são biết lịch thanh đủ dùng.
Đẹp thay làng Vĩnh-kiêm-đông, Truy nguyên tích củ văn phong thiệt nhiều.
Miểu chùa chợ búa mỷ miều, Người hay học đạo mơi chiều thung dung.
Bởi xưa Tấn-sỉ một ông, Tên Phang-hiển-Đạo ngụ trong làng nầy.
Công phu đèn sách nặng dày, Làm Đốc-học-chánh dạy nay Định-tường.
Tác thành sỉ tữ khoa trường, Phải trang mô phạm văn chương lưu tồn.
Chánh làng ở Dưởng-điềm-thôn, Học trò đều thảy kính tôn bậc hiền.
Trước nhà dán một câu liên, Mượn sơn thủy cảnh bút nghiêng đặt bày.

涔 江 波 靜 墨 池 香
龍 島 雲 晴 文 筆 峙

Gặp hồi binh cách chẳng may, Suối vàng cam phận tỉnh say mặc đời.
Giạ đài luống chịu nín hơi, Xét soi phú có gương trời là ơn.
Khá khen bà Thủ-bảng-Hơn, Nói luôn cho biết nguồn cơn sự bà.

Một niềm cần kiệm sanh nha, Nữ công nữ hạnh ai mà sánh đương.
Dầu khi tị nạn viển phương, Cũng là siêng nhọc lo lường làm ăn.
Quả cư giữ vẹn lòng hằng, Mấy năm tạo lập ví bằng giàu to.
Một mình gầy dựng cơ đồ, Chia cho mấy cháu qui mô sẳng sàng.
Tám mươi bốn tuỗi giấc an, Thật là phú thọ ít trang như bà.
Cây cao tàng lớn diềm dà, Sau nhờ ấm mát cả nhà hiển vinh.
Ông Cả-Trị, làng Nhị-bình, Tuổi đà bảy chục tánh tình hào thay.
Sữa mình cứ lẻ thẳng ngay, Người trong làng xã càng hay phục thành.
Các thôn bản cận xanh quanh, Chuyện chi trắc trở đem dành xữ phân.
Gặp đời ly loan phân vân, Bảo toàn hương lý nhơn dân yêm liềm.
Trần-thinh-Dự, làng Dưởng-điềm, Sảo thông nho học tánh khiêm cung thường.
Ở nhà lập một tư trường, Dạy nên con trẻ văn chương khiển hoài.
Trên Rau-răm, dưới Ba-rài, Cù-lao Ngủ-hiệp đất dài rộng thay.
Chợ ông Cả-Công ngày nay, Nhóm thường sung túc đông dầy người ta
Nguyên xưa một chổ rừng dà, Huỳnh-văn-Công chiếm lập ra thị-triền.
Dần dần qui tụ đông liền, Phần ăn Cẩm-địa tiền hiền còn lưa.
Lịch thay phong thổ Ba-dừa, Vườn cây hai phía nhặc thưa cả ngàn.
Cau tầm-vun, với trầu rang, Bông hoa lợi lộc dể dàng dinh sanh.
Mỷ-đông-trung tục rất xinh, Huỳnh-văn-Trung trước học sanh Định-tường.
Đương cơn binh hỏa nhiểu nhương, Không quên thủy thổ Quấc-vương cang thường.
Lập ra tư thục một trường, Tạo thành môn đệ thôn hương tứ bàn.
Mình cam ẫn dật thanh nhàn, Dựng nền thánh miểu nghiêm trang kĩnh thành.
Nay đà về chốn âm minh, Con là Kĩnh-thứ gia đình thi thơ.
Ruỗi cho tuỗi tác không chờ, Mới vừa tữ biệt ngẫn ngơ sự nhà.
Hẫy còn con cháu thuận hòa, Dấu roi danh giáo chắc là nối sau.
Trãi xem phong cãnh Ba-dầu, Đất nhờ huê lợi cau trầu tư niên.
Mé sông dân ở liền liền, Xanh quanh nội chợ xóm riềng quạnh hiêu.
Bán buôn chẳng đặng bao nhiêu, Làm ăn chắc chắn cứ theo ruộng vườn.
Nguyễn-thị-Liệu, trinh nữ phường, Nguyên xưa nàng ấy bị cường hãm dâm.
Khi đó tuỗi chừng mười lăm, Mình không chịu nhục mạng lầm tay gian.
Vua ban cho tấm biển vàng, Lập phường trinh nữ tại làng Mỷ-đông.
Tiếc danh chói rạng non sông, Những người hương phấn ai không yêu vì.
Miên kinh ngoạt cữu lắm khi, Ngói vôi xui ngã còn chi nữ phường.
Thiện nam tín nữ bỗn hương, Y theo sữa lại tỏ tường như xưa.
Tấm biển cũ hãy còn lưa, Đổi làm tấm mới cũng vừa mỹ quan.
Thường niên cúng cấp cổ bàn, Câu liên trước cữa ngai vàng biểu sinh.

聖 德 褒 旌 用 示 節 烈 者 勸
女 貞 自 守 無 為 強 暴 所 污

Thanh-sơn thôn, cãnh rất xinh, Là chợ Cây-lậy có dinh phủ đường.
Nghiêm trang điển xá học trường, Cữa nhà đông đảo phố phường trước sau.
Sông Cái-bè, rạch rộng sâu, Có quan Tỗng-đốc nhà lầu tôn nghiêm.
Một tòa cao vọi lặng yêm, Phía sau gia mộ cuộc thêm diềm dà.
Gốc xưa thi lể truyền nhà, Gặp cơn ly loạn mình ra dẹp nàn.
Xuất thân từ lính đến quan, Bốn mươi năm chẳng trên an nhọc nhằn.
Tên là Bá-Lộc họ Trần, Tướng hùm nỗi gió oai thần nép ma.
Nhứt sanh tin tưởng Chúa-Bà, Thường đeo tượng ảnh để mà trấn thân.
Khi nào hỗn chiến giáp gần, Đạn tên giặc bắn rần rần bên tai.
Như ai che đở mình ngài, Dư trong mấy trận không hoài vít đau.
Bắn voi lớp trước lớp sau, Hai mươi tám thất chẳng sầu chẳng nao.
Mình không thương tích tổn hao, Thiệt là bổn mạng gởi trao cho Bà.
Làm nhà thờ Đức-chúa-Bà, Phí tiêu ước đến của nhà tiền muôn.
Giữ gìn đạo Chúa luôn luôn, Tấm lòng sánh với tiếng chuông chẳng rời.
Mẹ cha như đất như trời, Ngài hay hiếu dưởng đời đời không sai.
Pháp-triều thạnh trị lâu dài, Lạc-hoa sang trọng thưởng tài nguơn công.
Vua Đồng-Khánh, có tặng phong, Kim tinh bội khánh thanh hồng sô xa.
Hiếu tâm dủ nhựt dủ gia, Bất suy thê tử thuận hòa đệ huynh.
Bảo an nội hạt thái bình, Nam-kỳ lục tỉnh một mình không hai.
Sanh ra trai phải con trai, Tử thừa phụ nghiệp lâu dài hiển vang.
Ông Trần-bá-Thọ vững vàng, Mở khoa ngôn ngử lại càng có danh.
Kể ra những sự đào kinh, Gốc xưa Thập-tháp nghĩa binh tụ tàng.
Giao hòa thuở mới vừa an, Vỏ-di-Dương lén dọc ngang biên thùy.
Kheo khư chổ rất dị kỳ, Tư bề bưng trấp giữa thì tháp xây.
Ông-Dương vỏ nghệ cao tay, Chiêu qui binh chúng chiếm ngay xưng hùng.
Mịt mù bốn phía minh mông, Tấn công thối thủ đất không thế thần.
Hiếu trung lòng dốc chuyên cần, Nghịch trời đem sức quét trần đặng đâu.
Thoát thân về với ghe bầu, Khỏi nơi Cần-hải Tiền-xu đón thoàn.
Giấc nồng đêm dậy nhảy khan, Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cầu.
Miển tròn danh giá về sau, Ức dương nghị luận mặc âu thế tình.
Tháp-mười địa cuộc minh minh, Muôn trùng nước cỏ thinh thinh dập dồn.
Ước chừng một huyện xả thôn, Cọp voi heo rắn khỉ chồn ở bao.
Ông Trần-bá-Lộc xin đào, Kinh thông nước chảy dể vào dể ra.
Quan nghi sức mọn người ta, Đào sao cho thấu hằng sa Tháp-mười.
E khi uổng phí công người, Cả trong thiên-hạ chê cười tốn hao.
Nhiều lần xin, mới cho đào, Ba năm đất mở biết bao hoan nhàn.
Giải dầu trải mấy gian nan, Nên ra một chổ muôn ngàn điền gia.
Nay đà lợi ích nước nhà, Công xâu dân chúng công đà đáng công.
Tốt thay Thập-tháp một đồng, Đông tây nam bắc nay thông bốn bề.
Tân-an Sa-đéc giáp kề, Các mối kinh đã dân về vạn thiên.
Trời cho một chổ bạc tiền, Bởi người có khó có siêng mới thành.
Nông là gốc của dân sanh, Làm ra đặng lợi đặng danh đời đời.

Đập đìa bưng xẻo khắp nơi, Cậy nhờ lúa cá thảnh thơi an nhàn.
Pháp triều đồ sộ giang san, Ơn quan Tổng-đốc nhẩy tràng chung riêng.
Nguyên khi thiết lập Đồn-điền, Hẩy còn nền chợ ở miền Xoài-tư.
Toan khai Thập-tháp câu cừ, Đặng thông các ngã dân cư nẻo đường.
Đại thần ông Nguyển-tri-Phương, Một tay chuyên chế phong cương chuẩn thằng.
Thứt khuya dậy sớm nhọc nhằn, Ưu dân ái quấc lòng hằng thảo ngay.
Sắm đào chưa kịp đến nay, Ông Trần-bá-Lộc sau bày thành công.
Hềm vì công đã thành công, Giáp-thìn bão ngập lúa không hột nào.
Tị-niên lại bị cào cào, Phần thêm chuộc cắn làm sao cho bình.
Hà-dương thần miểu một mình, Trên vàm Trà-lọt nước quanh vận đào.
Tàu ghe lên xuống ra vào Xứ kêu Vòng-mẫn ba đào hãi kinh.
Nhiều người không tỏ hiệu danh, Gọi là Dinh-cậu anh linh tiếng đồn.
Vàm Trà-lọt Hòa-khánh thôn, Có ngôi thạch mộ vĩnh tồn non sông.
Người đều kêu mã Lê-Ông, Nguyên là Nội-tỗ Tướng-công Bình-hòa.
Gốc khi dịch khí thạnh đa, Lê-Ông ngẩu cảm vội đà quyên sanh.
Giặc trời lúc ấy hoành hành, Chết chôn sơ tạm ai dành ruỗi may.
Đến vàm ông ấy đứt dây, Người bèn đào lỗ lấp ngay giữa chừng.
Vợ con không sở ăn mần, Đem nhau về ở Long-hưng Thuận-bình.
Rạch Ông-Hỗ ấy là danh, Mấy năm cư trụ kinh dinh ruộng đồng.
Sanh đặng ông Lê-tướng-công, Miểu lăng Gia-định thạnh sùng lữa hương.
Lê-Ông mộ chí ghi tường, Tại nơi Hòa-khánh thôn hương rỏ ràng.
Viên quan chức sắc nội làng Nhiều tay lể nghĩa nhiều trang học hành.
Tai ngơmặt lấp bao đành, Thường niên tế tảo dai thành Lê-Ông.
Đổi dời trải mấy thu đông, Mà người trung hậu một lòng tương đôn.
Lịch thay Hòa-khánh nhứt thôn, Dân phong thuần mỷ lược tồn sữ kinh.
Hương-quan-Đức, Nguyễn-ngọc-Huỳnh, Tú-Sỉ Nhiêu-Thới với anh Học-Điềm.
Đều là tánh hạnh khiêm khiêm, Thú vui đờn rượu ngày tìm dưởng dung.
Định-tường hạt ở chánh trung, Sông sâu nước chảy người sung lịch đời.
Văn phong thuở cựu rạng ngời, Một ông Tấn-sĩ hai người Thủ-khoa.
Ăn chơi tục lắm xa hoa, Cầm kỳ thi tữu vịnh ca tiếu đàm.
Tục hay tin chuyện bá xàm, Mấy thầy Tướng-ứng nói thàm nói vơ.
Tục hay thù vặc thừa cơ, Phao thuốc phao súng rơi thơ rơi tờ.
Thận, Long, năm trước đề cờ, Hiệp cùng Đức, Rộng, phĩnh phờ dậy binh.
Xuống lên Mỷ-quí Tân-thành, Điềm-hi, Hữu-đạo, xanh quanh các làng.
Giặc sao gươm giáo nghinh ngang, Súng ống không có ó vang cùng đường.
Điên cuồng gẩm cũng khá thương, Bốn người thảy mắc chiến trường tróc câu.
Dẫn ra Cây-lậy chém đầu, Bốn người đều chém trước sau một lần.
Sau thêm Ong, Khã, lẫy lừng, Roi mây ngựa chuối giăng giăng khởi cùng.
Dối rằng phép lạ năm Ông, Bùa linh hiển hích súng không làm gì.
Dân làng chẳng hiểu sự chi, Ngở là diệu pháp vậy thì rùng theo.
Ruổi ro Ong, Khả, vận nghèo, Bắt đều chém tại Thuộc-nhiêu Cựu đồn.
Người đời đâu thiếu trí khôn, Bởi nghe quấy quá hóa phồn dại ngu.

Sau thêm du sỉ Trần-Tu, Bày làm chuyện mị hoặc vu dị kỳ
Dã làm lời dụ Hàm-nghi, Người ta tưởng thiệt nhơn nghì tin theo.
Kế gian lấy của đặng nhiều, Tàng ẩn mơi chiều ở Vỉnh-kim-đông.
Ai dè thiên đạo chí công, Những trang hiểm ác chắc không sống đời.
Tuần do thám bắt tức thời, Côn-nôn phát phối khỏi vời chết ngay.
Tiếc người ăn học rất hay, Nho y sự nghiệp phải thầy có danh.
Làm chi những sự trớ trinh, Kiến tài ám nhản nở khinh thân mình.
Rỏ ràng chuyện mới đành rành, Khuyên người mựa chớ tánh tình mê say.
Bàu-cột-bườm tiếng lạ thay, Ở Thạnh-quan-tỗng làng rày Thanh-xuân.
Mùa mưa linh láng như bưng, Ngoài cao trong thấp bụi rừng rậm ri.
Ao-xương-rồng đặt tên kỳ, Tại Bình-vương-xã rộng thì minh mông.
Kinh Bà-bèo, phía trong đồng, Có chùa Phật-mọc Mục-đồng hay chơi.
Nguyên xưa am nhỏ lâu đời, Thờ ông Phật-đá tơi bời thuở nay.
Coi ra ông Phật bốn tay, Mặt mày hiền hậu tốt thay tượng hình.
Ông Bảo-hộ-Thoại, qua kinh, Bà cảm thời chứng thình lình phát đau.
Ông-Thoại xót xa ưu sầu, Trên bờ mách miệng phật cầu hiển linh.
Vái vang lập tức bịnh lành, Ngày sau tu chĩnh mới thành chùa to.
Ở làng Mỷ-hạnh giữa gò, Ra vô những trẻ chăn bò chăn trâu.
Thường khi trộm cướp đâu đâu, Đem đồ tan vật tới âu ở nhờ.
Dầu ai mạch chĩ tình cờ, Tư bề trống trải cỏi bờ quạnh không.
Dòm coi biết ý thẳng xông, Trốn qua chổ khác ai hòng bắt ta.
Hương-chánh-Quế, cất cái nhà, Tại Cái-thia xứ nay đà mấy niên.
Nuôi tên thợ Cữu thường xuyên, Ham ưa chạm khéo tốn tiền biết nhiêu.
Trời sanh tánh cũng khác nhiều, Khôn lanh kiểu vở tạc biêu để đời.
Định-tường danh tiếng ăn chơi, Ruộng vườn phì mỷ rạng ngời thủy sơn.
Chợ thời chợ Mỷ đông hơn, Chợ-bưng, Rạch-miểu, đơn đơn theo làng.
Ông-văn, Gò-cát, Cái-ngang. Nhựt-tân, Cai-lộc, theo đàng Sân-trông.
Bến-tranh, Cây-lậy, Cả-công, Cổ-chi, Trấn-định, cũng đông bạn hàng.
Tài-yến, Chợ-gạo, Cầu-ngang, Cái-thia, Cái-nứa, xuống sang Cái-bè.
Thuộc-nhiêu, Chợ-giữa, tư bề, Phố phường đông đảo chĩnh tề bán buôn.
Cái-lá, Chợ-mới, quá buồn, Ngã-tư chợ ấy đường luôn Ba-dầu.
Ba-dừa xứ tốt cau trầu, Rạch-gầm, Xoài-mút, có cầu ngang sông.
Nhị-bình, chợ quê ở đồng, Đôi ba mươi nhóm không không bữa nào.
Chợ-kinh chợ nhóm tầm phào, Người ta tuy ít ra vào đẹp xinh.