Bước tới nội dung

Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhì/Vĩnh Long

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Vỉnh-Long

Vỉnh-Long Phong cảnh thi:

Vỉnh-long địa cảnh rộng thinh thinh,
Thuở cựu trào ta chốn tỉnh thành.
Miễu-thánh ngày nay còn hiện tại,
Quốc-công thờ trước dấu anh linh.
Mười ba tổng, tục đều trung hậu,
Trăm mấy thôn, người biết học hành.
Thế cuộc hiệp tan tan lại hiệp,
Mau như mây nỗi giữa trời xanh.

Vỉnh-long địa cảnh lịch xinh, Nguyên xưa thiết lập Vỉnh-thanh trấn thành.
Sau cãi Vỉnh-long tỉnh thành, Đất nhiều vườn ruộng xanh quanh lao cồn.
Mười ba tổng, hơn trăm thôn, Y quan lể nhạc lưu tồn cổ phong.
Châu thành phố xá ở đông Dinh sanh đắt ý mé sông một hàng.
Các tòa lầu cát nghiêm trang, Hai bên phang niếc vẻn vang hơn nhiều.
Học trường tinh khiếc mỷ miều, Trường nam trường nữ thảy đều dạy siêng.
Ngặc vì sông cái phía tiền, Ghe phen cẩn đá lở liền khôn ngăn.
Xoi đào mũi nước chảy băng, Lâu nay bồi đấp tốn hằng của muôn.
Đường xe dạo cũng giãi buồn, Vòng lớn vòng nhỏ luôn luôn quanh dài.
Hai bên trồng những nam mai, Thường khi song mã vãng lai giãi phiền.
Cả ngàn phong cảnh điền viên, So cùng Bà-chiểu cũng miền lịch thanh.
Các thôn bàn cận châu thành, Đua ghe ăn dãi có danh khen thường.
Nhà thờ nhà phước nhà thương, Ngàn phòng điển xá binh thương thị triền.
Tàu đò sớm tối ghé liền, Bộ hành lên xuống bạc tiền quá đông.
Tàu tuần đi khắp ngoài trong, Bắc quân gian tế lước xông ra vào.
Bất kỳ sai tới hạt nào, Dẫu cơn phong vỏ ba đào cũng đi.
Măm trầu rực rở oai nghi, Tợ đèn tợ giẻ đủ thì điểm trang.
Sắm ra nội vụ sẵng sàng, Để khi cho mướn các làng hôn nhơn.
Nhứt đồ Hương-Dưỡng tốt hơn, Nhì đồ Tổng-Đạt chạm sơn khéo đều.
Các nơi đồ ấy cũng nhiều, Vỉnh-long kiểu cách mỷ miều bực trên,
Rạch Đất-méo, khéo đặt tên, Trong Văn-thánh miễu hai bên ruộng đồng.
Nguyên xưa xóm ấy chưa đông, Có ông Đức-Méo ở trong rạch nầy.
Ngày sau khai phá sum vầy, Người kêu Đất-méo đến rày thành danh.
Nhớ khi trấn Vỉnh-long thành, Phan-công Thanh-Dảng trung thành liêm minh
Rỏ ràng nhứt lộ phước tinh, Phương dân đều cảm đức lành no say.
Gặp hồi thế cuộc chẳng may, Mối giềng sáu tỉnh hai tay điều đình.
Nở rằng mải quốc cầu vinh, Cửu trùng cao thẳm bao đành lấp ngơ.

Mấy ai thời vụ kiển cơ, Minh sinh lời trối lảo thơ sanh đề.
Hư nên đã liệu một bề, Thung dung tựu nghĩa hồn về non sông.
Phải trang phẩm trọng nho tông, Trời soi ngay thảo tấm lòng chứng tri.
Quấc ân nhứt thủ di thi, Muộn sầu chẳng xiếc thảm bi không ngằn.

潘公遺詩 
𡽫渃散情係𪽝兜𢢯𢢯𩄲𤽸𡎝梅州 
𠀧朝功幹堆行疏𦒹省綱常沒梗收 
站北㝵除信蝶問城南𣈔𬋫㗂鵑愁 
銘旌𠃩字𢚸𡥵鑿𡗶坦辞𣈙黙 
秀才阮庭沼哭潘公詩 
歷仕三朝獨潔身微公誰賛一方民 
龍湖枉負書生老鳳閣空為學士臣 
秉節頻劳生富弼尽忠何恨死張巡 
有天六省存亡事难得従容就義神 

Vỉnh-long chùa miễu giăng giăng, Làng Long-hồ có miễu văn một nền.
Nguyên xưa dấu để vững bền, Sao dời vật đổi xuống lên vận đời.
Bởi vì son sắc rạng ngời, Háo thi lạc thiện lòng người không phai.
Phan công gầy dựng lưu lai, Sau ông Hộ-Nọn bồi tài kinh dinh.
Nay nhờ nhà nước hậu tình, Cho ngàn đồng bạc trợ thành mỷ quan.
Lại thêm có cô Năm-Lang, Là con Ông-hộ giàu sang phải nghì.
Tử thừa phụ nghiệp vỉnh vi, Thương cha mẹ đã tảo qui Diêm-đình.
Cúng vào sở ruộng của mình, Giá hai ngàn bạc phát lành tự tâm.
Thêm ngoài bạc hiện hai trăm, Giao cho Văn-miễu muôn năm lâu dài.
Bình-long Thầy-phó mười hai, Tên Tống-hửu-Định ít ai sánh tày.
Làm đàu Văn-hội ngày nay, Trùng tu miễu vỏ chỉ bày rất công.
Sửa sang thứ lớp ngoài trong, Nay đà nghiêm chỉnh Điện-cung hậu tiền.
Ơn nhờ tứ hải lạc quyên, Kẻ nhiều người ít bạc tiền phủ phê.
Xuân thu Đinh-tế thường lề, Nghi văn phẩm tiết tư bề phân minh.

Coi bài thơ phía sau:

隆城歸大法聖址属於官幸逢張富戶出 
貨續地還四旁諸善信重修亦偉覌誰料于 
中葉殿宇忽頽荒宋靜齋副總欣然為啟 
端六省紳豪集捐全不吝慳旣荷人情好 
又承國厚頒宮墻誇富美爼豆永嚴莊大 
成䀡闕里餘靈仰杏𡊨潘公應含笑張老 
更開顔香火垂千載江山久遠看 
右五言古調詩後學阮蓮𡶶拜題 

Phan-Công tùng tự miễu đình, Tới khi kị nhựt sắm sanh lể bày.
Mồng năm tháng bảy chánh ngày, Đồng nhơn văn-hội cúng rày không sai.
Phụ thêm Ông-hộ là hai, Nhớ ơn lớp trước tiền khai hậu bồi.
Hương đèn trà rượu heo xôi, Cổ bàn trần thiết các ngôi rạng lòa.
Mát yêm cây trái cỏ hoa, Nhơn cơ nghĩa chĩ một tòa nghiễm tôn.
Hương chức nội Long-hồ thôn, Đều là vào hội Thánh-môn miên trường.
Nguyễn-Đức mới thăng phủ đường, Cũng người bằng hữu trong trường nho văn.
Thiên-đường hồn đã siêu thăng, Dấu roi nết tốt bạn hằng cảm trông.
Tống-hữu-Định người có lòng, Rước đem linh cữu chôn trong Thánh-từ.

Ít nhiều chung đậu của tư, Lo bề tống táng chĩ ư tâm đồng.
Phò Nguyễn-trào, Tống-quấc-Công, Trung cang nghĩa khí một ông linh thần.
Miễu tại Long-châu địa phần, Cựu trào thiết lập sữa mần đã lâu.
Tân trào cai trị lớp sau, Hỏi hang sự tích biết âu rỏ ràng.
Ba ngàn đồng bạc hậu ban, Đội ơn nhà nước cho làng trùng tu.
Hưởng nhờ huyết thựt thiên thu, Rộng thinh trước miễu giai cù thẳng ngay.
Thiếu chi chùa miễu đời nay, Tục người tế tự cũng hay kĩnh thành.
Thuở ấy ông Cao-văn-Sanh, Thiên tư mẫn thiệp khí oanh tánh hào.
Giải dầu hoạn hãi ba đào, Làm tôi giúp nước công lao rất nhiều.
Tống-Minh Tri-phủ cựu triều, Gia viên ẫn dật mỷ miều nho phong.
Xóm Cái-cá nhà ở đông, Có người phú thọ phải ông nhơn hiền.
Tên đặt gọi là Tống-Diên, Thiệt trang phước đức cao niên trong làng.
Phước-hậu thôn, ông Cã-Nhan, Tu nhơn tích thiện tiếng vang xa gần.
Nay đà cách biệt dương trần, Phước sanh thảo thuận để phần tữ tôn.
Quấc-âm cách đặt khéo khôn, Vĩnh-long toàn hạt tiếng đồn Giáo-Kim.
Tánh người nho nhã khiêm khiêm, An thường thủ phận chẳng thèm vọng tham.
Sanh Giáo-Thiệp cũng kỳ nam, Thơ hương kế mỷ chức làm Nghiệp-sư.
Siêng cùng nhựt nguyệt cư chư, Học trò thành đạt hiện chừ đương kiêm.
Chợ Ba-kè, thầy Tú-Nghiêm, Thiệt thà chơn chấc tánh khiêm diệu dàng.
Tốt thay Mỷ-thạnh một làng, Anh linh hiễn hích miễu quan Tiền-hiền.
Ngài xưa hưu trí qui điền, Chiêu dân lập ấp xóm riềng mở mang.
Ra công lập đặng thành làng, Gọi làng Mỷ-thạnh dọc ngang rộng dài.
Đến sau tách lại thêm hai, Mỷ-hưng Mỷ-hội phía ngoài hai thôn.
Với Mỷ-thạnh, là ba thôn, Tiền-hiền Cẫm-địa lưu tồn miễu môn.
Miễu ngài chánh Mỷ-thạnh thôn, Đến ngày kị lạp ba thôn tới đều.
Viên quan hương chức mỷ miều, Một câu thành kĩnh tạc biêu tấm lòng.
Lê-công-An, ấy tên ông, Bà là họ Đặng-thị-Thông rỏ ràng.
Ông bà công cán gian nan, Dựng nên cơ chỉ một làng ra ba.
Biết bao phước đức ông bà, Vợ chồng khi mất đều là ngày nguyên.
Ông nhằm vọng nhựt tháng giêng, Bà thì nhằm bữa hạ nguyên tháng mười.
Ngàn thu hương lữa rạng ngời, Sống sao thác vậy như người thần-tiên.
Gọi là miểu quan Tiền-hiền, Nơi làng Mỷ-thạnh cất riêng một tòa.
Có người gần đó không xa, Thầy Cai-tổng Điểm phú gia hào cường.
Giáp-thìn trận bảo tai ương, Bốn trăm giạ lúa qua đường Gò-công.
Giúp cho những kẻ khốn cùng, Đương cơn thiên biến cũng lòng thiện tâm.
Sông Mân-thích, cồn Cái-nhum, Truy nguyên sự tích lâu năm choạnh sầu.
Nhớ xưa Văn-Tiếp tánh Châu, Phò Cao-hoàng-đế trước sau một lòng.
Chức phong Đô-đốc Nguyên-nhung, Cúc cung tận tụy liều cùng quân-vương.
Nơi sông Mân-thích bị thương, Đem thân cảm dỏng chiến trường quyên sanh.
Anh hùng chí khí liệc oanh, Sử xanh tạc để đành rành còn ghi.
Làm tôi ngay thảo trọn nghì, Hưởng nhờ ơn chúa vinh chi cho bằng.
Biễn dâu dời đổi lăng xăng, Tổng làng nhơn nghĩa bỗn căng vuông tròn.

Bình-chánh tổng An-hội thôn, Cựu tân hương chức bảo tồn thỉ chung.
Ngọn rau tấc đất chữ lòng, Tu bồi miễu-vỏ tâm đồng hân hoan.
Bởi vì gốc có viên quan, Là chánh Tổng-Huởn sữa sang lịch đời.
Cù-lao giồng án các nơi, Người đều nhờ cậy lộc trời điền viên.
Chợ-lách có ông Huyện-Thiền, Làm tôi Nhà-nước nhọc siêng công trình.
Sảo thông chữ nghĩa học hành, Chiêu hiền đải sỉ đam mình dạy dân,
Giữ câu liêm cán thận cần, Sữa nên phong tục Mỷ thuần gần xa.
Các làng an ổn cữa nhà, Chẳng lo trộm cướp ngầy ngà ngày đêm.
Tế thần phép tắc tôn nghiêm, Y quan lể nhạc khiêm khiêm kính nhường.
Xóm riềng roi dấu yêu thương, Bình-sơn sở tại thôn hương tiếng đồn.
Chợ Vủng-liêm, Trung-tính thôn, Đình thần chùa phật nghiểm tôn trong làng.
Mấy nhà hào hộ giàu sang, Lắm tay khẳn khái lắm trang mẩn cần.
Đốc-phủ-sứ, Nguyễn-duy-Tân, Ngài đà hưu-trí dưởng thân thanh nhàn.
Trước sau danh giá vẹn toàn, Sanh con lập nghiệp vững an sum vầy.
Gò-ân, Nước xoáy lịch thay, Có ngôi Thần-miểu làng rày Hồi-long.
Thuở Cao-hoàng-đế Gia-Long, Bị Tây-sơn biến ngự trong ấy thường.
Ngày nay đông đảo thôn hương, Dấu xưa lễ nghĩa hào cường phú gia.
Miễu thần ngay chỗ ngã ba, Lầu đài cao vọi một tòa nghiêm trang.
Diện tiền triều thủy tam giang, Vách tường bốn phía tam quan cữa đình.
Phải là nhơn kiệt địa linh, Người nhờ cuộc đất thái bình dinh dư.
Thầy Tỗng-Nghĩa tánh nhơn từ, Gốc nhà phước đức còn chừ hiễn vang.
Con là Tỗng-Lễ rất nhàn, Thủ thành sự nghiệp bão toàn thinh danh.
Anh em sung túc gia đình, Phụng nuôi lão mẩu đẹp tình từ huyên.
Hồi-Long tứ cận xóm riềng, Giàu sang nhà ấy khuôn viên tiếng đồn.
Bình-trung tỗng, Trung-hưng thôn, Có ông Cai-tỗng danh tồn đương vi.
Tên người là Nguyễn-văn-Phi, Làm tôi giúp nước lắm khi thanh cần.
Bắt ăn cướp, đã nhiều lần, Khai kinh Mướp-sác nhơn dân đều nhờ.
Gốc nhà lương thiện tư cơ, Cha là Chủ-Báu thuở giờ lưu lai.
Sanh ra trai lớn, Nguyễn-Bài, Làm Hương-sư chức có tài cãm đương.
Bình sanh dỏng lực khác thường, Hào tâm hiệp khí chẳng nhường cỗ phong.
Nguyễn-Báu, Nguyễn-Bài hai ông, Đã đều về chốn âm cung xa miền.
Nguyễn-Phi sau nối mối giềng, Phụ huynh sự nghiệp nhơn hiền cã ba.
Phi, thêm kế mỷ thê gia, Ông Đỗ-văn-Tuấn trước là phụ ông.
Tuấn, làm Cai-tỗng Bình-trung, Nết-na ngay thẳng cám trông nhắc đời.
Bên mình bên vợ rạng ngời, Băng thanh ngọc nhuận phải người nhà sang.
Vĩnh long phong cảnh thanh nhàn, Nghiệp nhờ hột lúa muôn vàng thương sương
Sông to tôm cá có thường, Lưới chài xăm đáy sở trường làm ăn.
Xe mui đưa rước lăng xăng, Ghe lồng sắm đễ nghề năn buôn hoài.
Thuở kia khoa mục nhiều ngài, Hẫy còn tào phách lưu lai Thánh-hiền.
Thơ bài đờn địch chơi liền, Phong lưu lớp trước lưu truyền hậu sanh.
Tre bông vật mọn mà danh, Vĩnh-long với Mỷ tươi xanh đầy bờ.
Bến-tre, Sa-đéc, Cần-thơ, Cũng là có ít lờ mờ dạng bông.

Mấy anh thợ quạt hay dùng, Mua về Bình-định với cùng Phú-an.
Măng Mạnh-tông vật thiệt sang, Bụi tre coi nhỏ măng càng lớn to.
Long-hồ, Sa-đéc, Mỷ-tho, Nhiều nhà trồng đặng vật mua mắc tiền.
Mùi thơm không độc ăn hiền, Thịt heo hầm nấu mềm liền ngọt ngon.
Thấp cao cây mẹ cây con, Mạnh-tông tên đặt tiếng còn lưu danh.