Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhì/Trà Vinh

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Trà-Vinh

Trà-Vinh phong cảnh thi:

Tốt thay phong thổ xứ Trà-vinh,
Hứng cảnh vui xem cảnh thích tình.
Tiếng ruộng Đồn-điền roi sự tích,
Tên chùa Ông-Mẹt dấu anh linh.
Làm ra thần hiển phần Quan-bố,
Sức hóa giàu to mạng Tổng-Minh.
No ấm dân đều nhờ lúa gạo,
Bấy lâu an ổn bặc tâm kình.

Tốt thay địa hạt Trà-vinh, Hai mươi phần tổng thinh thinh rộng dài.
Thổ ở trong, Hớn ở ngoài, Giăng giăng theo xóm đua tài làm ăn.
Người còn roi dấu nho văn, Ruộng là sự nghiệp bỗn căng bạc tiền.
Mấy năm gầy dựng mối giềng, Công lao nhà nước nhọc siêng nhiều bề.
Lần lần nay mới chỉnh tề, Quan quân dinh dãy tư bề sữa đương.
Hai tòa phang niếc công đường, Ngân phòng điển xá học trường vẻn vang.
Nhà thờ Thanh-lệ nghiêm trang, Nhà lầu bà phước vững vàng dưới trên.
Ông-Mẹt gốc là người Mên, Kêu chùa Ông-Mẹt đặt tên cũng vì.
Nguyên xưa trong lúc loạn ly, Xui lòng Ông-Mẹt từ bi phát nguyền.
Của nhà tự xuất bạc tiền, Cất thành chùa Phật ngôi riêng trong làng.
Chánh trung phật lớn thết vàng, Nền cao rộng rãi tứ bàn trồng cây.
Xanh quan Lục Sãi ở đầy, Lá buôn viết chữ nét gầy tợ cua.
Tục Mên ăn học tại chùa, Thiệt thà chắc chắn quê mùa mà xong.
Gặp ngày cúng cấp đi đông, Bông hoa bánh trái đờn ông đờn bà.
Rặp bồn rặp bát ngâm nga, Vái vang quì mọp trẻ già khiêm cung.
Thổ táng phận người nghèo cùng, Giàu thì hỏa táng xây dùng quá đa.
Thường khi vái cất Tha-la, Lớn bằng căng phố người ta nghĩ ngồi.
Lệ chùa nào khánh táng rồi, Thì ngoài bốn phía đắp bồi Sa-ma.
Tục kêu rằng chót Sa-ma, Là nguyên các chủ cúng mà của riêng.

Hoặc là đồ đạt bạc tiền, Gởi cho cha mẹ cữu tuyền chứng thâu.
Ngoài chùa đào lỗ rộng sâu, Thĩnh thầy Sãi-cả kinh cầu vái vang.
Lòng thành cúng quảy kỉ càng, Cột hòn đá lớn treo ngang miệng hầm.
Mấy người khẩn niệm lăm dăm, Của chi mình gởi thì cầm nơi tay.
Quăng xuống lổ, không mấy đầy, Thầy cắt dây ấy đá rày trấn lên.
Đắp bồi nện chặc bốn bên, Miệng hầm lót gạch cái nền thẳng ngay.
Vuôn vuôn chừng một thước tây, Ngoài cất chòi nhỏ như nay Thổ-kỳ.
Dựng trong tấm đá y nguy, Hoặc chạm hình phật bất kỳ hình hoa.
Cũng gọi rằng là Tha-la, Tiếng Mên kêu chót Sa-ma mỷ miều.
Xanh quanh chùa bốn hướng đều, Mổi chòi mổi lổ tạc biêu thảo nhà.
Chùa nào chưa chót Sa-ma, Qui mô chùa ấy vậy mà chưa nên.
Trà-vinh biết mấy chùa Mên, Cây cao mát mẻ hai bên an nhàn.
Trung hưng thuở Đức-cao-hoàng, Nguyễn-Tồn chiêu tập hai ngàn Mên binh.
Thảy dân Mân-thích Trà-vinh, Thúc thành đội ngủ gọi binh Xiêm-đồn.
Truy nguyên sự tích ông Tồn, Người Mên vua đặt Nguyễn-Tồn tánh danh.
Sau thăng Điều-bát chức vinh, Một mình cai quản Xiêm-binh các đồn.
Nay miểu ở vàm Trà-ôn, Miểu ông Điều-bát hiện tồn anh linh.
Quấc vương thủy thổ hậu tình, Biển dâu đổi cuộc tiếng lành khôn mua.
Ngày sau tứ tánh nhờ vua, Kim, Sơn với Thạch quê mùa dấu roi.
Nhà việc Minh-đức hẳng hòi, Trên có chung-biểu để coi ngày giờ.
Thanh-nhơn hay sắm xe tờ, Chịu khi đưa khách đưa thơ các đường.
Ngoài vàm vô chợ thường thường, Tràm hai bên lộ dặm trường vãng lai.
Rẫy trồng bông trái nhặc sai, Tôm cua cá biển bán hoài cả năm.
Trầu cau không có bao lăm, Cải dưa bắp mía đất nhằm chổ yêm.
Trà-vinh có cảnh chùa chim, Chùa Mên thờ phật mà chim ở đầy.
Trời sanh vật mọn cũng hay, Nghỉ ngơi tìm chổ kết bầy quá khôn.
Trà-phú tổng Đôn-hóa-thôn, Người qua kẻ lại tiếng đồn đã lâu.
Khen loài cầm điểu ở đâu, Từ bi cãnh giới nhóm nhau kẹo lền.
Thầy tu xin phép quan trên, Không cho bắn phá vậy nên vững vàng.
Chim kia còn biết chổ nhàn, Người trương cung ná nó càng bay cao.
Huống chi cữa phật ra vào, Háo sanh ố sát ai nào nở tay.
Gừng sậy mùi thơm ít cay, Đờn bà làm mứt khéo bày ngọt thanh.
Mứt coi trong vắc sạch tinh, Người ta ăn mứt Trà-vinh nhắc hoài.
Kinh vào Chợ-trốt mới khai, Đường đi các tổng dặm dài voi vơi.
Khó bề nước uống nơi nơi, Khi nhờ bàu giếng khi trời mưa chung.
Miểu linh tại xứ Ô-đùng, Thờ quan Bố-chánh tữ trung thành thần.
Tướng Mên khi ấy loạn trần, Sa-Som khởi nghịch dậy rân một miền.
Đương hồi Thiệu-Trị tam niên, Trần-Hoài, Bố-chánh ngài liền xuất binh.
Hiệp cùng Tri-huyện Trà-vinh, Người nguyên khoa mục tên Huỳnh-hữu-Quan.
Phất cờ giục trống ó vang, Thừa cơ hổn chiến đánh tang trận đầu
Mên nghe súng nổ chạy nhầu, Trốn trong rừng bụi toan âu ngăn ngừa.
Ruổi thời Quan-bố bị mưa, Vào chùa tạm nghĩ binh thưa đề phòng.

Quân Mên tràng nhảy vô trong, Đương cơn bất ý chém ông Trần-Hoài.
Chém luôn Quan-huyện cả hai, Quân ta rả chạy đường dài trốn đi.
Hai ông hiển hiện bất kỳ, Bắt quân Mên thảy tức thì phát đau,
Lớp sôi bụng lớp nhức đầu, Kể dư trăm đứa cùng nhau hải hùng.
Dẩn Sa-Som nạp chẳng dung, Cất lên miểu-vỏ tại trong Ô-đùng.
Bốn mùa hương hỏa thạnh sung. Làm tôi thờ chúa hiếu trung trọn nghì.
Tại làng Hiếu-tữ y nguy, Tục kêu lăng miễu vậy thì đến nay.
Có câu liên đặt rất hay, Một bên bảy chữ dán rày trước hiên.

垣 翰 幾 年 文 頗 武
疆 塲 萬 里 死 猶 生

Lòng thành khả tác cữu nguyên, Dẩu nơi mang mạch linh thiên tiếng đồn.
Trung can nghĩa khí lưu tồn, Xát ma nằm đó mà hồn đã thăng.
Câm loài chim chuột liếu lăng, Nghịch trời thì mắc lưới giăng giửa trời.
Hạo nhiên chánh khí đời đời, Ngàn thu huyết thựt một nơi Miên tràng.
Lầu bà Cố-hỉ ba lằng, Ba làng ba chổ nghiêm trang ba tòa.
Trường-lộc, Phú-thứ, Thạnh-hòa, Trong ba thôn ấy có ba cái lầu.
Thờ bà Cố-hỉ đã lâu, Người hay vang vái nguyện cầu lắm khi.
Sắc phong Cố-hỉ Tiên-phi, Sơn-minh-hải-tạng còn ghi chữ đề.
Tứ bàn chùa miễu ê hề, Tại nơi Ba-động tư bề đẹp đông.
Chánh làng Trường-lộc thôn trung, Chùa-phật Miễu-cố lăng ông Đinh-thần.
Đều là tráng lệ thanh tân, Thường khi tế tự thói dân kính thành.
Lễ nghi roi dấu để dành, Thủ-khoa-Hoằng trước tác thành lưu lai.
Tục siêng rảy ruộng lưới chài, Nhơn dân trù mật trong ngoài lịch xinh.
Tan hôn thù tạc hậu tình, Gốc xưa nhơn nhượng của mình còn dư.
Ngặc vì nho giáo vô sư, Không ai dạy dổ khải ư nhi đồng.
Có ông phủ Lỏi giàu lung, Nay đà hưu-trí dưởng dung thanh nhàn.
Bãi-bùn nhiều mã cựu quan, Tại thôn Phú-thứ trong làng còn nguyên.
Xanh quanh tứ cận xóm riềng, Thường niên tế tảo cảm phiền bởi đâu.
Choạnh tình tấc đất ngọn rau, Tưởng người trên trước mình sau hết lòng.
Miễn ta làm phải là xong, Xét soi chứng có vun trồng cao sâu.
Làng Long-hậu, rạch Thâu-râu, Giếng bến Bà-Sở nước đâu có thường.
Ghe phen giãi khát quân vương, Cao-hoàng thuở ấy lắm đường khỗ lao.
Mộ quân đóng tại Cồn-ngao, Nhiều khi thất trận ra vào Côn-nôn.
Trường-tiền Đàng-tế hiện tồn, Dấu roi sự tích tại hòn Cỗ-chiên.
Đẹp thay phong cảnh Cỗ-chiên, Ba làng đông đảo điền viên mỷ miều.
Xứ trồng đồ rẩy cũng nhiều, Trên rừng dưới nước lợi đều giăng giăng.
Cá-ông thờ một sở lăng, Hàm còn hiện tại cao bằng người ta.
Miễu coi không mấy nguy nga, Song bề tế tự cũng là kỷ cang.

Cù-lao-phụng, Cù-lao-bàng, Cách nhau trên dưới một ngàn dòng xanh.
Nhớ xưa Khâm-mạng Triều-đình, Có quan Đại-sứ kinh dinh cương trường.
Tên là ông Nguyễn-tri-Phương, Đồn-điền thiết lập ruộng vườn phá khai.
Trà-vinh cuộc đất rộng dài, Quân Đồn-điền ước hơn vài ngàn dân.
Cầu-ngang Trà-cú xa gần, Đào kinh khẩn đất lần lần mở mang.
Ngày nay ruộng tốt muôn ngàn, Công ơn quan Nguyễn nhẫy tràng Trà-vinh.
Cầu-ngang chỗ rất, lịch thanh, Ông Lưu-minh-Mẫn rạng danh tiền-hiền.
Sữa làng Minh-thuận mối giềng, Nay còn ngày kị thường niên rở ràng.
Giữa chừng gặp lúc rối loàn, Có ông Phủ Nhiễu kĩ cang sắp bày.
Hiện đà hưu trí ngày nay, Vợ hầu sung túc no say cuộc trần.
Thầy chánh-tỗng Hợi có phần, Công lao giúp nước thận cần bấy lâu.
Hiện kiêm thi đậu huyện hầu, Đợi tờ thăng hỗ chói màu gấm thêu.
Giàu mà tánh ý không kiêu, Giữ nền phước đức kẻ yêu người vì.
Tục nơi Bến-có rất kỳ, Thuộc tỗng Trà-phủ làng thì La-vi.
Mỗi năm thập nguyệt đáo kỳ, Lễ Ót-tầm-bốc gốc thì của Mên.
Che chòi buôn bán hai bên, Nhóm nơi Bến-có dưới trên sum vầy.
Nội trong ba bốn đêm ngày, Dừa tươi với chuối đông dầy người ta.
Bữa đầu kễ bữa mười ba, Đến ngày mười sáu nhóm mà luôn luôn.
Dập dều Hớn, Thỗ không buồn, Ba-ngoe bong vụ bày tuồng ăn thua.
Chuối dừa Mên thảy đi mua, Mua nơi Bến-có cúng chùa quí hơn.
Lưu truyền lệ của cỗ nhơn, Ông bà người Thỗ khéo cơn đặt bày.
Ao-vuông cảnh cũng đẹp thay, Tại Trà-phú tỗng ranh ngay hai làng.
Lượng-sa, Đôn-hóa, rỏ ràng, Dấu xưa tích củ coi càng vui say.
Ước chừng hai ngàn thước tây, Tư bề vuôn vức thẳng ngay một tòa.
Dưới thời ngư thủy liên hoa, Trên thời bờ lũy diềm dà cây giăng.
Tiếng Cu-bà-rẹt-ta-băng, Nguyên là tiếng Thổ bỗn căng chuẩn thằng.
Dịch ra tiếng Hớn gọi rằng, Lũy-ao-hồ-phật Chà-văn vậy mà.
Dịch thành ra chữ nhu ta, Tiếng người cải dụng kêu là Trà-vinh.
Thuở cựu có Phường-nữ-Trinh, Tại Lai-vi xã niên kinh bại tàng.
Thị-Duông tuy gái Mên mang, Mà lòng nghĩa liệc trinh nhàn khả phong.
Trinh-Phường trải mấy thu đông, Ngói vôi xiêu ngã sạch không tan tành.
Thầy Cai-tổng Huỳnh-nhựt-Thanh, Chuyện làm phải nghĩa mình đành khải đoan
Thiện nam tín nữ lân bàn, Chung tiền sữa lại kĩ càng như y.
Trùng tu nghiêm chỉnh oai nghi, Bốn mùa hương khói vỉnh vi để đời.
Câu liên trước cữa rạng ngời, Triều-đình thưởng tứ miệng người đọc vang.

強勿自攖聖主隆恩荣不朽
貞肝全節朝廷表善類無遺

Trải xem Giồng-lượng Bãi-xang, Nhà thờ Thiên-chúa vẻn vang hai từng.
Tứ bàn hoa thảo thanh tân, Mỗi tuần giảng dạy thói dân thuận hòa.
Ruộng vườn no đủ mọi nhà, Đọc kinh xem lể trẻ già khôn lanh.
Lại thêm Bà-phước hiền lành, Đồng nam đồng nử trưởng thành thất gia.
Vàm Láng-thé, làng Long-hòa, Có tên Bãy-Lợi phát ra làm thầy.
Dại điên dốt nát quá tay, Thân chủ lui tới đông dầy đồn rân.
Chuyện làm hoặc thế vu dân, Khen cho thiên-hạ rần rần nghe theo.
Dị đoan phĩn dỗ nhầm dèo, Rồi ra lầm lỗi hiểm nghèo biết nhiêu.
Bình-phước thầy Cai-tổng Nhiều, Sanh tiền diện mạo mỷ miều nghiêm trang.
Tu mi đoan chánh diệu dàng, Phong lưu nho nhã các làng nhắc trông.
Vủng-gù qua đó dưỡng dung, Quí dân lập ấp mở sung mối giềng.
Dựng làng Khánh-lộc nên riêng, Việc quan cần cáng nhọc siêng công trình.
Bấy lâu về cỏi âm-minh, uKhông con có cháu gia đình nối sau.
Hương-chủ ông Lâm-quan-Châu, Lập làng Huyền-thạnh buỗi đầu sơ khai.
Chợ kêu Ất-ếch lâu dài, Dựng nên sự nghiệp trong ngoài Trà-on.
Ông Lâm-quan-Phước là con, Chuyên nghề làm ruộng sắc son sức mình.
Tên ngoài người gọi Tổng-Minh, Làm ra cự phú tiếng vinh Nam-kỳ.
Thiệt là giàu lớn bực nhì, Với ông Phát-Đạt đều thì tay sang.
Chịu hai muôn bạc với quan, Để mà mua sỏi đổ trang trên đường.
Ước bảy ngàn thước bề trường, Tại nơi Ô-chát đầu đường ngã ba.
Giáp vô Huyền-thạnh xa xa, Khỏi lo bùn lấm vào ra dể dàng.
Nay đà tách chốn suối vàng, Tữ an sanh thuận danh càng thơm rơi.
Đông con đông cháu nối đời, Có tên Quan-Vận lập nơi học trường.
Tát thành trẻ nhỏ thôn hương, Bao nhiêu tốn phí lo đương của nhà.
Cần-chông xứ rất hào hao, Cư dân trù mật phố nhà thạnh sung.
Bắc ngang cầu sắc qua sông, Ở xa ngó tợ hình rồng cong cong.
Cả đồng Rạch-lọp minh mông, Phì nhiêu điền địa lúa sung hằng hà.
Những người các xứ vào ra, Lập thành sự nghiệp thất gia ở đều.
Mùa mưa mòng muổi quạnh hiu Qua mùa thâu hoặch biết nhiêu bạc tiền.
Thạch-In Hiệp-quản Đồn-điền, Người Mên mà có đức hiền thiện tâm.
Tân-triều Cai-tổng mấy năm, Thạch-Vầu nối chức dạ châm làm người.
Đẹp thay Mặc-bắc thanh tươi, Nhà thờ Thiên-chúa một nơi chỉnh tề.
Mỗi tuần kinh sách phủ phê, Tại làng Long-định tư bề quá đông.
Sông cái ngoài vàm Cần-chông, Ngó ngang Vàm-tấn minh mông liên bì.
Tiếng đồn cá cháy Nam-kỳ, Cá nơi sông ấy vậy thì có danh.
Bắc-trang địa cảnh cũng xinh, Song mà phong tục tệ tình chưa an.
Trữ hoa trộm cướp trong làng, Thuốc thư kiện cáo tìm tàng hại nhau.
Đổi qua Phủ Huyện trước sau, Không phương sữa trị đã lâu vậy hoài.
Có nhà giàu lớn lâu dài. Đội mười Nhơn trước đa tài đa đinh.
Ngã ba Trà-cú kinh dinh, Mình làm suất-đội nổi danh Đồn-điền.
Ông Nhơn người có đức hiền, Mấy năm gầy dựng mối giềng vỉnh vi.
Nay còn con cháu nhơn nghì, Nhờ xưa phước ấm đều thì giàu sang.

Một trăm tám chục ba làng, Trà-vinh toàn hạt đất càng rộng quanh.
Thanh-lệ, Minh-đức, châu thành, Bấy lâu thói tệ trớ trinh nhiều bề.
Thuở quan Tham-biện Lang-Lê, Bị quân thích khách nhảy kề chém tay.
Số ngài cũng gặp hồi may, Chẳng chi thì đã xuống rày âm cung.
Sau thêm danh Trọng hành hung, Sát nhơn bạch nhựt mạng đồng phù-du.
Thông-Chánh chuyện không đáng thù, Bắn quan Biện-lý tu du bỏ mình
Quấc gia cứ lẻ công bình, Hai người xữ tữ phân minh răng người.
Nghĩ đi nghĩ lại nực cười, Mang câu huyết khí ở đời sao xong.
Lắm người không xét đục trong, Đặt vè tầm bậy điên khùng bia danh.