Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhứt/Biên Hòa
Biên-Hòa
Biên-hòa phong cảnh thi:
Quãn hạt đường xa mấy dặm dài,
Vừa ba trạm đất tới Đồng-nai.
Thạch-nang giữa lạch thuyền kinh hãi,
Chiêu-thới bên triền khách vãn lai.
Linh cậy miễu chùa linh ngó thấy,
Lợi nhờ sỏi đá lợi bền dai.
Nhà dân xóm xóm đều trung hậu,
Thói cũ lề xưa hãy mĩa mai.
Biên-hòa tiếng gọi Đồng-nai, Tục kêu Nồng-nại giọng sai gần gần.
Cao-hoàng thâu phục Phú-xuân, Nhờ nơi Lộc-dã binh hưng hiễn tài.
Lộc-dã nghĩa là Đồng-nai, Theo đường quãn hạt dặm dài tâm tâm.
Của nhờ tài mộc sơn lâm, Đá xanh sỏi núi cả hằm cả hang.
Thường năm thường lấy muôn ngàn, Sanh sanh hóa hóa lợi càng hóa sanh.
Ra công rẩy ruộng thâu thành, Bắp khoai mía đậu để dành đũ tiêu.
Mía đường vật cũng khá nhiều, Bưởi ngon ngọt với trà tiêu mọi loài.
Cau khô thuốc súc dầu chai, Thịt rừng thời có hưu nai thường thường.
Mười tỗng đất đặng bề trường, Châu thành thiết lập quan đường nghiêm trang.
Chỉnh tề bên niết bên phan, Bực tiền cẫn đá đại giang thủy triều.
Phố phường vừa đũ không nhiều, Vật ăn cũng ít mỷ miều thanh tân.
Dân cư phong tục kiệm cần, Hể nơi trù mật là gần thị thôn.
Đường-sứ, Đồng-váng, Đồng-môn, Bến-gỗ, Bến-cá, Chợ-đồn, Chợ-dinh.
Đồng-môn, Bà-ký, rất xinh, Vườn cau mịch mịch tươi xanh cả ngàn.
Phước-lai, Phước-kiển, mấy làng, Phong thuần tục mỹ dân nhàn sanh phương.
Lắm nhà bền vững cột rường, Lắm trang chữ nghĩa văn chương học hành.
Người xưa khoa hoạn có danh, Ông Đào-trí-Phú đành rành bực sang.
Bị cang án, thuở Tiên-hoàng, Phải chăng ai tỏ ưng oan cho cùng.
Ông Hiệp-Bá tánh khiêm cung, Vợ chồng nhơn đức một lòng như nhau.
Thổ sãng thứ nhứt là cau, Cau khô xứ ấy ăn lâu đẹp tình.
Xa xuôi cách trở hãi trình, Ít khi cá biễn dùng mình cá sông.
Những đồ quã phẫm hàng bông, Với đồ lò gốm đũ dùng trong dân.
Các nơi đình miểu thôn lân, Xuân kỳ thu báo lệ thần nghiêm trang.
Quan hôn tang tế kỷ cang, Vãn lai thù tạt bĩ bàn lể nghi.
Thạch-nghê đầu giác dị kỳ, Biên-hòa tục ngữ kêu thì ông Nghê.
Lớn hơn mười trượng chĩn ghê, Nước ròng cạng thấy tư bề y nguyên.
Cù-lao-phố chỗ linh thiên, Xưa có cầu ván bắt chuyền ngang sông.
Lý-Quan người chệt xưng hùng, Đại-vương Đông-phố vẩy vùng cỏi riêng.
Lê Cảnh-Hưng thuở bát niên, Chàng bèn đốt phá cầu liền cháy tiêu.
Sự bình bất Phục tu kiều, Bến đò đưa rước mơi chiều lại qua.
Sau giặc Tây-sơn vào ra, Đóng đồn gần đó kêu ra Chợ-đồn.
Thạch-nang chỗ rất hãi hồn, Đá hàng một dảy tiếng đồn thuở nay.
Hẹp vừa lòng lạch giữa ngay, Ghe đi lên xuống người rày đều nao.
Tới mùa lạo thủy lộn đào, Chảy đứt đuôi rắn ra vào sợ ghê.
Miểu quan Chưởng-Lễ dựa kề, Lý-Ngư có lúc khuya về hiện thân.
Nhảy nhào hụp lặng lăng xăng, In như hình tới trước sân lạy mừng.
Thiệt là Thượng-đẳng-linh-thần, Công lao khai quấc xa gần tạt ghi.
Bây giờ nền mới cải di, Hãy còn nền củ vậy thì y nguyên.
Tốt thay chùa núi cảnh riêng, So bề thanh lịch là miền Bữu-phong.
Đại-giác chùa có sắc phong, Hỏa hương sum thạnh phật đồng lớn cao.
Có người đui tối tầm phào, Lên hòn Chiêu-thới ước ao trụ trì.
Tay cùi mắt chẳng thấy chi, Thiện nam tính nữ đều thì xúm lo.
Thường đem ve nước tới cho, Nữa thì người uống nữa cho bùa về.
Ví dầu bịnh hoạn ủ ê, Uống vào khỏe mạnh hơn bề sâm nhung.
Xóm làng tin cậy vào lòng, Cất cho am tự dưởng dung tu hành.
Núi Lò-gạch chỗ đá xanh, Những người nước Hẹ dinh sanh dập dều.
Trời cho hang lợi mĩ miều, Giúp dân ngoại-quấc biết nhiêu bạc tiền.
Làm ra vạn vạn thiên thiên, Bởi bàng tay trắng nhọc siêng xẳng đào.
Núi Cù-lao-rùa trên cao, Có lưởi tầm sét đời nào lưu lai.
Hình như lưởi búa không sai, Nguyên là cốt đá khen ai khéo mần.
Bến-cá vàm dưới cũng gần, Dài theo mé nước thói dân trở đường.
Bình-thạnh, Bình-ý, Thôn hương, Lò đường cát trắng thường thường biết nhiêu.
Mùa đông các lái mua nhiều, Đường chở dập dều Bến-cá đem ra.
Thiếu chi thợ ở trên nhà, Các lò đường phỗi ở mà mé sông.
Chảo lò thợ sắm sẵng dùng, Trỡ thành đường phỗi nhờ trong trứng gà.
Nguyên đường các trắng làm ra, Trở rồi cắt miếng huờn mà tiền công.
Các lái mướn trở đã xong, Bán cho các chợ đờn ông đờn bà.
Tục dân gần tết mọi nhà, Dưa hấu đường phỗi đều là sắm chưng.
Nghèo quê trong chốn rẩy rừng, Trong ba bữa tết cũng chưng thường thường.
Tân-triều chỗ Thiên-chúa đường, Thinh thinh lầu các cột rường vọi cao.
Xung quanh người đạo ở bao, Mỗi tuần kinh sách ra vào cẫn nghiêm.
Dân cư bốn phía lặng im, Thiệt thà chắc chắn giữ niềm thảo ngay.
Bề-trên dạy dỗ rất hay, Lại thêm Bà-phước sắp bày kỷ cang.
Đâu đâu tề chĩnh lớp lang, Đồng-nam đồng-nữ lịch sang mĩ miều.
Tốt thay phong cảnh Tân-triều, Bông huê cây trái vật nhiều món xinh.
Trầu cau cam bưởi quít chanh, Măng thơm chuối mít vật lành lợi dân.
Đường-sứ chỗ rất thanh tân, Chức làng trung hậu thói dân thiệt thà.
Đình thần phong cãnh diềm dà, Phố phường buôn bán thuận hòa hai bên.
Có chùa Ông-Mỏ phía trên, Ngó lên xóm Cối chùa tên cũng kỳ.
Nguyên xưa cái gốc cây chi, Đem về tĩa vẻ y nguy tượng hình.
Áo xanh bận phủ ngoài mình, Mặt lần thỏn xuống mỏ chinh chinh dài.
Thờ chung với phật Như-lai, Người đi cúng quảy hoài hoài vào ra.
Bùng-binh Đá-trắng trên xa, Thánh đường cao vọi coi đà phải nơi.
Khiết tin thờ Đức-chúa-trời, Đọc kinh xem lể thảnh thơi tư bề.
Trên ông linh-mục chĩnh tề, Dưới người trong họ no nê xa gần.
Trời sanh phong thỗ toan tân, Đủ ăn đủ bận ngày lần tháng qua.
Chẳng hề lãng phí xa ba, Tôn ty đẵng cắp phãi mà dưới trên.
Học thời chánh phụ hai bên, Trường quan trường tổng dạy nên cũng nhiều.
Sáu tổng dân Mọi liêu hiêu, Cữa nhà rãi rát bao nhiêu sang giàu.
Biên-hoà nước ngọt sông sâu, Đất pha các trắng đường cầu lịch xinh.
Hõa xa nay đã dọn thành, Xiết bao lao dật dân tình buồn vui.
Vui là luân chuyễn khứ hồi, Chia ra bốn hạng đứng ngồi cân phân.
Đốc công dầu những cấp cần, Vơi vơi dậm thẳng dần dần lẻ xong.
Chừng nào nam bắc lưu thông, Nay còn hết thảy kẻ trông người chờ.
Toàn hạt năng dụng xe tờ, Xe bò thì để bụi bờ xuông pha.
Ghe thời thường sắm rỗi nhà, Nghề đi chỡ cá vào ra rạch ngòi.
Ít nhiều con mắt từng coi, Coi rồi đánh giá hẳn hòi không sai.
Cận sơn cận thủy cũng tài, Trời sanh mỗi nghiệp một vài người hay.
Những người danh tiếng đời nay, Ông Lượng-văn-Núi nết hay gìn lòng.
Hàm Đốc-phủ-sứ gia phong, Biên-hoà quãn-hạt-hội-đồng có danh.
Ông huyện Sự xứ Long-thành, Thuộc Bình-lâm tổng hiền lành thẳng ngay.
Lảo thành chữ nghĩa são hay, Trước làm cai-tổng ngày nay huyện hàm.
Chuộng yêu-đạo học An-nam, Gia viên ẩn dậc thú cam vui vầy.