Bước tới nội dung

Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhứt/Tây Ninh

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Tây-Ninh

Tây-ninh phong cảnh thi:

Tây-ninh địa cãnh giáp Mên man,
Bố án hai tòa đặt đủ quan.
Miễu-cã anh linh nơi chợ Trãng,
Điện-bà hiễn hít chốn Linh-sang.
Hương đèn bông trái người năng cúng,
Cây ván dầu chai nghiệp cũng nhàn.
Làng tỗng nơi nơi còn thói cựu,
Xứ tuy rừng núi lắm khôn ngoan.

Tây-ninh đất lắm hoan nhàn, Coi ra bưng hố hầm hang tư bề.
Rẫy trồng mía, thuốc, đậu, mè, Cây bàn đương điệm bán về các nơi.
Dầu chai gỗ ván quá chời, Lúa sạ ba tháng lộc trời phì nhiêu.
Trái cây không có bao nhiêu, Mây rừng các thứ thiệt nhiều lắm thay.
Châu thành đường sá sạch ngay, Hai ty phan, niết, sắp bày nghiêm trang.
Lính tây đồn lập kỷ cang, Phố phường đông đảo dọc ngang mấy hàng.

Thái-bình, Chợ-mới, sữa sang, Hiệp-ninh, Chợ-cũ hai làng giáp ranh.
Cựu trào kêu phủ Tây-ninh, Ngày nay phong cãnh lịch xinh chĩnh tề.
Thịt rừng chợ bán ê hề, Tứ dân sanh ý các nghề đủ tiêu.
Cá tôm khí vị mĩ miều, Ao rạch ít nhiều vật dưởng người ta.
Tàu đò thường lúc vào ra, Đậu nơi Bến-kéo xe mà chỡ chuyên.
Tây-ninh mấy dặm xa miền, Mới bày xe máy đường liền chạy hay.
Điện-bà xưa những đến nay, Thiệt là một chỗ cao dày linh chung.
Dưới chưng có cảnh chùa-trung, Kề bên sẵn suối nước trong thấy trời.
Người đều tới đó nghĩ ngơi, Khiết tinh mộc dục lên nơi Điện-bà.
Trèo lên ba dốc nguy nga, Tới miễu Ông-Tà ngó thấy cây sao.
Cây sao sanh trưởng năm nào, Một vừng đồ sộ ôm vào xiết chi.
Kề bên có tháp từ bi, Rỏ ràng thiệt phải chỗ thì sơn môn.
Điện-bà đá mọc nghiễm tôn, Lài lài một mái càng khôn tạo thành.
Nam-kỳ người thảy húy danh, Cầu con cầu thuốc kĩnh thành biết bao.
Tới lui những khách phú hào, Thơ bài ngâm vịnh thắp cao dán cùng.
Trung giang suối chảy đùng đùng, Phía tiền hố thẩm lạnh lùng sợ thay.
Ước chừng năm bảy năm nay, Có cây mai trắng sanh rày phía sau.
Tốt thay bông trái các màu, Nhản lồng, trầu lá, mản cầu, xoài voi.
Sởn sơ đậu nọc bỏ vòi, Hột làm vị thuốc hẳng hòi thiệt hay.
Hang Ông-chàm có ông thầy, Tục kêu Ông-nhỏ ở rày trì tu.
Đường đi lên đảnh khi khu, Xa xa thấy dạng mù mù nhà quan.
Cất ra cũng để du nhàn, Qui mô hẹp nhỏ phòng đàng hứng chơi.
Éo le vì bởi tại nơi, Cho nên ít thuở thảnh thơi đến thường.
Linh-Sang Tiên-Thạch tỏ tường, Tên chùa mới đặt cột rường xa ba.
Của người công cọng gần xa, Phí hao thiên vạn mới là mỉ quan.
Rày thêm phong cảnh rở ràng, Bởi vì chung sức thế gian tu bồi.
Chúng tăng mấy chú làm tôi, Giữ lòng chơn thiệt coi ngôi của Bà.
Cách đó cũng không bao xa, Đường qua Đá-bạc lại là quanh co.
Y nhiên vẻ bứt họa đồ, Ngàn thu hiển hít liểu bồ phong tư.
Lục châu chim ngưởng linh từ, Thành tâm cảm cách phỉ chừ ước ao.
Có hòn Đảnh-cậu cũng cao, Kề bên chùa phật ra vào nghe chuông.
Tương rau chay lạt luôn luôn, Mấy ông thầy sãi vui buồn mà chi.
Đã đành hai chữ từ bi, Sớm khuya mật niệm Mưu-ni, Thích-già.
Suối-vàng gần đó chẳng xa, Suối-vàng tên có vàng mà vốn không.
Cái-cùn chổ núi gần sông, Có chùa hình đá năm ông rở ràng.
Trong ngoài làm những đá toàn, Trải bao binh hỏa thương tang hãy còn.
Dấu linh tạt để sông non, Mặt mày hiền hậu không mòn nét da.
Lái bè mấy chú lại qua, Ghé vô khẩn vái đều là bình an.
Rồi đem lể tạ bỉ bàn, Nhiểu sô hàng thiệt vắt tràng nơi trong.
Chổ là vắng vẻ quạnh không, Hiêu hiêu hơi gió ngoài sông lạnh lùng.
Rừng già bốn phía điệp trùng, Cọp voi thú dữ hay rông ra thường.
Phần thời hiểm trở nẻo đường, Nên trẻ điếm đường chẳng dám vào ra.

Những đồ sô nhiểu lụa là, Để đâu còn đó ai mà tham gian.
Phong thổ ít chuyện bạo tàn, Ít khi dịch khí tai nàn hại dân.
Các giồng mấy chổ cư dân, Lớn nhỏ hương chức cựu tân thiệt thà.
Thần từ miểu vỏ gần xa, Nghi văn tế lể cũng là lệ xưa.
Chữ nhu còn hãy dây dưa, Tôn ty phép tắc vừa vừa dể coi.
Cang thường luân lý dấu roi, Quan hôn tang tế tục noi theo hoài.
Nhà thờ giảng đạo hôm mai, Gội nhuần ơn Chúa chẳng sai tấm lòng.
Lái-Triều tiếng cũng phú ông, Sanh tiền thường cúng của trong thánh-đường.
Phía quan phía tổng có trường, Mấy thầy giáo tập dạy thường siêng năng.
Tây-ninh phong tục làm ăn, Nhờ trong rừng núi bổn căng bạc tiền.
Thợ rừng sanh lý rất siêng, Dầu chai, sáp mật, đi miền bên Phan.
Xứ thời không mấy giàu sang, Thiệt thà bền chắc dân an nghiệp nhàn.
Lịch thay phong cảnh Trảng-bàn, Lợi nhờ rẩy thuốc bạn hàng quá đông.
Tên ông Tề người biết cùng, Thuốc ngon trử bán đồn trong xóm làng.
Nhơn dân đông đảo an nhàn, Có ngôi giếng-mạch rỏ ràng ngọt thanh.
Tự nhiên một chổ thiên thành, Cạng mà mạch tốt nước sanh đời đời.
Xanh quanh nội chợ các nơi, Người ta ăn uống thảnh thơi lạc tình.
Thiện nam tính nử lòng thành, Chung tiền sửa đắp lịch xinh một tòa.
Chánh trung hương hỏa thờ Bà, Ngoài hai hộc nước xây ra có ngằn.
Xóm riềng kẻ tắm người ăn, Lớp lui lớp tới lăng xăng chặc đường.
Nước đâu trong mạch thường thường, Chảy ra hai hộc ngày trường dinh dư.
Gần xa bốn phía thôn khư, Uống ăn khoẻ mạnh dân cư cậy nhờ.
Giữa chợ có làm miểu thờ, Thờ ông cả Trước đến giờ linh thiên.
Phố mười chín căng phía tiền, Phía sau mười chín khuôn viên kỷ càng.
Thuở xưa gầy dựng Trảng-bàn, Bởi ông cả Trước gian-nang nhiều bề.
Nay thành một chỗ chỉnh tề, Đình chùa phố xá phủ phê trong ngoài.
Công ơn người thảy cảm hoài, Chung nhau lập miểu thờ ngài thuở nay.
Mỗi năm kị lạp đến ngày, Nghi văn phẩm tiết đặt bày khiết tinh.
Tứ bàn tổng xả xanh quanh, Cử kêu tên Trước kỉnh thành không sai.
Tiền-hiền sự nghiệp lâu dài, Như ông cả Trước nào ai dám bì.
Tại làng Gia-lộc vỉnh vi, Tỗng Hàm-ninh-hạ nguy nguy miểu đường.
Mả ngài tế tảo thường thường, Bùng-binh, Bến-súc, là đường mộ cơ.
Ở trong đất nước cỏi bờ, Khá khen hương chức chẳng ngơ tấm lòng.
Thủy nguyên mộc bổn thỉ chung, Biển dâu dời đổi cũng không phụ phàn.
Thương vì kinh sử cửu oan, Mà gương trung hậu lại càng tỏ soi.
Phong thuần tục mỷ dể coi, Trăm ngàn thu dưới dấu roi cang thường.
Nhiều tay nhà cữa cột rường, Nhiều tay danh tiếng hào cường xả thôn.
Nhiều tay sang trọng quyền môn, Nhơn cơ nghỉa chĩ bảo tồn cổ phong.
Tây-ninh đất núi minh mông, Lợi nhờ thỗ sảng điệp trùng ván cây.
Nhơn dân ăn chắc mặt dày, Thờ thần chuộng phật lòng hay kỉnh thành.
Hềm vì tăng chúng gian manh, Tham tâm trục lợi mong sanh thói tà.
Kiết-ma-thoại, chùa Điện-bà,
Đương kiêm hiện tại thật là vô lương.