Bước tới nội dung

Nam ngạn chích cẩm/Mục 7 chữ

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

MỤC 7 CHỮ

Nhất duyên, nhì phận, tam phong-thổ,
Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền.
Đất vua, chùa làng, phong-cảnh phật,
Của đời, người thế, nước-non tiên.
Mồ cha chả khóc, khóc đống-mối,
Vật chụi chẳng được, vật thày-tu.
Đường quang chẳng đi, đi đường dậm,
Người lành không hỏi, hỏi người mù.
Nhà hàng nói thách, khách giả rẻ,
Đi buôn có bạn, bán một mình.
Trăm cái khôn dồn một cái dại,
Một câu nhịn là chín câu lành.
Giặc đến nhà, đàn-bà cũng đánh,
Chợ chưa họp, kẻ cắp đã đông.
Kẻ có nhân mười phần chẳng khó,
Người làm quan nhất tự cách chùng.
Lắm người yêu hơn nhiều người ghét,
Mất lòng trước nhưng được lòng sau.
Nứa chôi sông chẳng giập thì gẫy,
Muối bỏ bể không thấm vào đâu.
Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ,
Ăn cùng chó, nói só cùng ma.

Có xương-sông tình phụ lá-lốt,
Chê rau-muống lại ôm dưa già.
Miệng kẻ sang có gang có thép,
Người đi buôn cầu nước cầu non.
Trước có vụng rồi sau mới khéo,
Đã được thể cũng dễ nên khôn.
Bạc thì dân, bất nhân thì lính,
Được lòng ta, xót-xa lòng người.
Gần nhà giầu đau răng ăn cốm,
Ngồi gốc sung há miệng chực rơi.
Râu ông nọ cắm cầm bà kia,
Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
Mình làm ra chẳng ma nào làm,
Người làm sao chiêm-bao làm vậy.
Giai có vợ tề-gia nội-chợ,
Gái ơn chồng ngồi võng du con.
Chê của dì lấy gì làm bữa,
Ở với mẹ biết ngày nào khôn.
Khó ở làng, sang ở thiên-hạ,
Ăn tại chủ, ngủ tại công-đường.
Thấy người sang bắt quàng làm họ,
Đã làm đĩ lại toan cáo làng.
Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo,
Ăn vô chừng chẳng biết đói no.
Khó huyện-quan bằng giầu tư-vụ,
Hầu quân-tử hơn chồng đần-ngu.
Biết sự giời mười đời chẳng khó,
Ăn miếng ngon chồng con giả người.
Không có cá lấy cua làm trọng,
Mới có bí chê bầu rằng hôi.
Quan chẩy rồi, thợ ngôi cũng tếch,
Vua đi trước, làng nước theo sau.
Làm kiếp trâu kéo cầy giả nợ,
Họ nhà tôm lộn cứt lên đầu.
Một đời ta man-vàn đời nó,
Trăm kẻ bán chán-vạn người mua.

Trẻ mùa hè bò què tháng sáu,
Giai phải vợ cò-bợ giời mưa.
Tốt phô ra, xấu-xa đạy lại,
Được tiếng khen, ho hen chẳng còn.
Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén,
Của như núi ăn mãi cũng mòn.
Quan muốn sang, nhà hàng muốn đắt,
Trên trông xuống, người ta trông vào.
Bói ra ma, quét nhà ra rác,
Ăn đã vậy, múa gậy làm sao.
Miệng thế-gian chẳng ít thì nhiều,
Kẻ có tiếng chẳng mạnh thì bạo.
Muốn ăn oản thì nằm mấy sư,
Thấy có thóc mới cho vay gạo.
Mười bó đuốc cũng vớ được ếch,
Trăm hòn chì đúc chẳng nên chuông.
Con có cha như nhà có nóc,
Giai không vợ như cau không buồng.
Con không khóc mẹ chẳng cho bú,
Chúa vắng nhà gà mọc đuôi tôm.
Gái không chồng như thuyền không lái,
Giai có vợ như giỏ có hom.
Ăn cơm không biết giở đầu đũa,
Nằm giữa chẳng sợ mất phần chăn.
Gái có chồng như gông đeo cổ,
Giai có vợ như dợ buộc chân.
Thả con săn-sắt bắt con sộp,
Đổi bát bồ-hôi lấy bát cơm.
Cây giữa rừng ai lay chẳng chuyển,
Hoa mất nhị lấy gì làm thơm.
Giọt máu đào hơn ao nước lã,
Một bát cháo chạy ba quãng đồng.
Giầu có số, nghèo cũng có số,
Tâm là lòng, ý cũng là lòng.
Thấy có của thì tối mắt lại,
Làm kẻ cả phải ngả mặt lên.

Trung hậu cũng là trung hậu bạc,
Nhân nghĩa gì bằng nhân nghĩa tiền.
Bạc đầu không bằng đứa lên bẩy,
Bồ-dục chẳng đến bàn thứ năm.
Làm đĩ không đủ tiền phấn sáp.
Đứng ngoài chịu mất áo dài thâm.
Châu-chấu thấy đỏ lửa thì đến,
Cà-cuống chết đến đít còn cay.
Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy,
Giầu có ba mươi tết mới hay.
Lật-đật như sa vật ống-vải,
Lầm-dầm như đĩ khấn tiên-sư.
Khư-khư như ông từ giữ oản,
Xoi-xói như thày-bói đâm cua.
Tấp-tửng như trẻ được cái bánh,
Nheo-nhéo như mõ réo quan-viên.
Nhấp-nháy như thày-bói cúng thánh,
Lừ-đừ như ông từ vào đền.
Choi-chói như mặt giời mới mọc,
Vằng-vặc như ngôi sao giữa giời.
Lầm-lầm như chó ăn vụng bột,
Lừ-lừ như mèo nằm với người.
Xờ-xờ như gương treo trước mắt,
Ầm-ầm như sét đánh lỗ tai.
Lấm-lét như quạ chui chuồng lợn,
Lông-bông như ngựa chạy đường quai.
Lục-đục như thày-bói dọn cưới,
Lúng-túng như thợ vụng mất kim.
Vênh-váo như bố vợ phải đấm,
Mập-mờ như mụ lão sờ kim.
Lôi-thôi như cá chôi sổ ruột,
Lênh-đênh như bè nứa chôi sông.
Lượt-bượt như lễ-sinh dắt vở,
Nhởn-nhơ như con đĩ đánh bồng.
Nơm-nớp như cá nằm trên thớt,
Lồi-lồi như cứt trôi đầu bè.

Dửng-dưng như bánh-chưng ngày tết,
Toe-toét như ống-nhổ thày đề.
Đủn-đởn như đĩ được cái đanh,
Im-ỉm như gái ngồi phải cọc.
Lèo-nhèo như mèo vật đống rơm,
Lang-lảng như chó phải dùi-đục.