Quốc văn trích diễm/74

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

BUỒN RẦU

Đề chữ gấm 1 phong thôi lại mở,
Gieo bói tiền 2 tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn-ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ-phờ tóc mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ-thơ thẩn-thẩn như không.
Trâm cài xiêm giắt thẹn-thùng,
Lệch vừng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, thầm gieo từng bước,
Ngoài rèm thưa, rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chửa mách tin 3,
Trông rèm dường đã có đèn biết chăng 4.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi-thiết mà thôi!

Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo-óc gáy sương năm trống,
Hòe phất-phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng-đẵng như niên,
Mối sầu dằng-dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương[1] gượng soi lệ lại chứa-chan,
Sắt cầm gượng gẩy ngón đàn[2],
Duyên uyên kinh đứt, phím loan ngại trùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên 5.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm-thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm-thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau-đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết-tha lòng,
Cành cây sương dột, tiếng trùng 6 mưa phun.
Sương như búa bổ[3] mòn gốc liễu.
Tuyết nhường cưa sẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sân tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu.
Đâu xiết kể muôn sầu nghìn não
Từ nữ-công phụ-xảo 7 đều nguôi.
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,

Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều ròi-rõi nương song.
Nương song luống ngẩn-ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai.
Biếng trang điểm lòng người sầu tủi.
Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang-lăng.
Khác gì ả Chức chị Hằng,
Bến Ngân sùi-sụt, cung trăng chốc mòng.

CHÚ THÍCH. — 1. Nàng Tô-Huệ là vợ Đậu-Thao. Thao phải đi thú phương xa, nàng làm bài hồi-văn dệt chữ vào gấm, dâng vua xin cho chồng về — 2 Tục bói lấy đồng tiền gieo quẻ. — 3. Bởi câu thơ cổ: trước sân chim thước kêu là điềm tốt báo tin cho biết nhà có người đi xa sắp về. — 4. Ý nói: chỉ có ngọn đèn để làm bạn. — 5. Yên là đất Yên, ngoài ải, gần với rợ Hồ, chỉ nơi chồng đánh giặc ở đấy. — 6. Tiếng sâu kêu. — 7. Nữ công là công việc của người đàn bà như thêu, dệt, may, vá, v.v.; phụ xảo: là nghề khéo của đàn bà.

   




Chú thích

  1. Kiếng. —
  2. Đờn. —
  3. Bửa.