Sùng giặc đảt rền, lòng dân trời tỏ: Mười năm công vỡ ruộng, xưa ắt còn danh nổi như phao.
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mỏ.
Nhớ linh xưa!
Cui cút làm ăn, riêng lo nghèo khó:
Chưa quen cung ngựa, đua tới trường nhung,
Chĩn biết ruộng trâu, ở theo làng hộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thơ đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu,
Hai vầng nhựt nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen nầy xin ra sức đoạn kình,
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến nầy dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh,
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám bang vỏ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thơ, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỏ.
Hoa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ.
Chí nhọc quan quản gióng trống kỳ, trông giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cữa xông vào liều mình như chẳng có.
Trang:Ca tru the cach.pdf/37
Giao diện
— 37 —