thể là một người tri-kỷ thứ hai, cho nên những lúc quạnh-hưu, càng nặng tấm lòng tưởng nhớ. Trơ-vơ đất khách, nỗi khổ khôn cùng; vướng-vít dây tình, ruột đau đòi đoạn; luống mấy bữa nay mưa cơn gió trận, những tiếng ỳ-ào tý-tách lại thường nhân những lúc đèn tàn rượu cạn, đưa đến quấy-nhiễu ở bên tai; Bằng-lang thì vì ươn mình mà luôn mấy hôm trời cũng không sang học. Một ngọn đèn mờ, tình buồn vô hạn, đêm dài giằng-giặc, sầu nối liên-miên. Ôm chăn trằn-trọc suốt canh tà, chàng bèn đem mọi mối bi-thương trồng-chất, mọi niềm tâm-sự ngổn-ngang, nhất-nhất đều tả ra thành thơ, trong khoảng vài tuần, tập giấy viết đã dầy gần một tấc. Nay lục ra mấy bài như sau:
I. — Quá lứa buồn tênh khách má hồng,
Thương xuân Đỗ-Mục luống đau lòng;
Người còn hận biết bao giờ hết,
Đêm quạnh sầu thêm mấy đợt trồng;
Rậu cúc tàn sương hương vẫn thoảng,
Chồi lan động gió lá đương rung;
Người trong cảnh ấy ai là bạn?
Một tập thơ xuông, chén rượu nồng.
II. — Gặp nhau quá chậm ngoại mười niên,
Gương vỡ mong chi chắp được liền!
Nghìn thủơ hãy còn đeo-đẳng hận,
Ba sinh thôi đã lỡ-làng duyên;
Hầu khô giếng nọ trào khôn rậy,
Đã tắt lò kia lửa lại nhen;
Bể khổ mông-mênh tìm giải thoát,
Bờ xa chưa dễ dắt nhau lên.
III — Vàng ken ngọc nhả vận thơ trao,
Mỗi lượt ngâm tuôn một trận rào;
Thông tuệ tiếc cho đời bạn uổng,
Nổi chìm ấy chính kiếp ta sao?
Nước trôi quá ngán ngăn không lại,
Bóng xế còn mong sáng được bao?
Giằng-giặc canh dài người một bóng,
Thành sầu lũy hận chất càng cao.