Điệu thơ. — Điệu thơ là cách sắp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai dễ đọc. Tiếng ta có tiếng bằng có tiếng trắc. Muốn phân-biệt tiếng nào là bằng, tiếng nào là trắc, phải biết cách đánh vần.
a) Cách đánh vần. — Như muốn biết tiếng tâm là bằng hay trắc thì phải nói tầm tâm bằng, tấm tẩm (hay tậm) trắc: thế tiếng tâm là bằng. Cách ấy tức là cách đánh vần của các cụ ta ngày xưa. Tập nói thế nhiều lần cho quen, làm thành nhập-tâm, hễ đọc một tiếng lên biết ngay là bằng hay trắc. — Nay theo lối viết chữ quốc-ngữ thì những tiếng gì phải đánh dấu (`) hoặc không phải đánh dấu (bình-thanh) là bằng, mà những tiếng gì phải đánh các dấu (´), (?), (~) (.) là trắc cả.
b) Các điệu thơ. — Bài thơ nào các tiếng trong một câu sắp đặt theo điệu bằng trắc gọi là thơ Đường-luật (vì tự đời nhà Đường bên Tàu đặt ra). Còn bài nào không theo điệu bằng trắc gọi là thơ cổ-thể[1] hoặc cổ-phong (lối cổ: có trước đời nhà Đường).
Đường-luật lại chia làm hai thể: thể bằng hoặc luật bằng là thể thơ bắt đầu hai tiếng bằng; thể trắc hoặc luật trắc là thể thơ bắt đầu hai tiếng trắc.
c) Các thể bằng trắc. — Nay lấy chữ b thay tiếng bằng chữ t thay tiếng trắc, chữ v thay tiếng vần mà kể các cách sắp đặt tiếng bằng tiếng trắc trong các thể thơ như vầy:
I — THỂ BẰNG VẦN BẰNG
(Vần bằng nghĩa là các tiếng vần đều đặt tiếng bằng cả).
1• Ngũ-ngôn (bát cú)
|
2• Thất-ngôn (bát cú)[2]
|
- ▲ Xem bài Vịnh hai bà Trưng, trang 31.
- ▲ Xem bài thơ mẫu: Cảm-hứng của cụ Trạng Trình, trang 9.