Trang:The luc khach tru va van de di dan vao Nam ky.pdf/119

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 119 —

sẽ có phép Chính-phủ cho lập ra, đại-khái lấy tên là hội « khẩn hoang » (Société d'Exploitation agricole), nói đúng ra thì tức là hội các ông tư-bản (Société des capitalistes), vốn chừng mười lăm vạn đồng. Thoạt tiên Chính-phủ hãy nhường cho hội một khu đất độ bốn hay năm vạn mẫu, tự hội mộ người vào làm, nhưng khi đầu thì tiền tầu, giấy thông-hành, thì xin Chính-phủ miễn cho, và miễn cho cả các thuế má trong năm năm nữa. Đối với những người nông-phu vào đó, thì hoặc là hội cấp vốn cho mà tự khẩn lấy một số ruộng đã nhất định cho từng người, vừa làm vừa giả nợ cho hội, hoặc là làm công cho hội mà thôi. Nghĩ lại, làm cách như thế không xong được. Thứ nhất là vốn ấy không đủ khai-khẩn được bấy nhiêu ruộng, vả lại may ra được mùa luôn thì chớ, nếu mất luôn cho hai ba năm, nông phu không lấy đâu mà trả được, thì hội tất phải vỡ nợ, ấy năm 1906, đã có một hội như thế, do người Pháp và người Tầu lập lên, cốt đem dân Tầu sang đồn điền bên Nam-kỳ và Cao-Miên, chỉ được có một năm là vỡ nợ, thì đủ chứng tỏ rằng một hội mà làm được việc ấy, là khó lắm vậy. Sau hết, là hội của các ông tư-bản thì lại càng không xong nữa. Nói cho phải, các ông tư-bản, trong 100 người thì ta mới thấy được một vài người là có lương-tâm, có độ lượng, còn thì toàn là hạng tham-lận, tàn nhẫn, ngồi lên bạc, xéo lên vàng. lấy làm hớn hở, chứ không biết đến những kẻ cầm mai vác cuộc đặng khai những mỏ vàng bạc ấy cho mình là ai, mà dẫu có hy-sinh ít nhiều mạng người, cho đầy tủ sắt thì cũng làm, nông nỗi như thế, không trách nào nước Nga nổi cái phong-trào « lao nông » lên được. Nay khẩn hoang, mà bảo rằng do một cái hội tư-bản chủ-trương, thế thì chẳng khỏi sinh ra cái tình-tệ như trên kia, bọn nông dân chỉ làm đầy tớ cho mấy ông tư-bản mãi, tự mình không bao giờ mưu lấy được cái địa-vị khá cả. Nếu mấy ông tư-bản cứ làm cái ngón « trịch thượng », cưỡi đầu cưỡi cổ bọn nhân-công, dùng chúng làm trâu ngựa mãi cho mình mà không biết thương xót như thế, sợ có một ngày kia chúng phản-động thì hỏng bét, mà xứ Nam-kỳ bao nhiêu năm nay, chỉ khẩn ra được có một số ít ruộng, ấy cũng là bởi mấy ông tư-bản