Trang:Vi nghia quen tinh.pdf/19

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 13 —

ngày nay chúng lấy làm một thứ thánh-thần. Các cô tiểu-thư thời này cũng đến « đồng tiền », vòng hoa nhẫn hột, thấy ai túi nặng là yêu. Ngày trước đã có người đăng báo nói « khuê-các » với « bình-khang » chỉ khác nhau có cái tiếng gọi, thực là người biết đời lắm. Buổi giao-thời nghĩ lắm nỗi thương-tâm: người trong nước nhặt-nhạnh được dăm ba cái bã-giả văn-minh, một vài cái cấu-cặn tự-do, chẳng còn nhìn đến liêm-sỉ nữa. Những kẻ tu-my nam-tử ngày nay biết cầm ngòi bút viết câu văn còn chỉ vì đồng tiền mà bỏ cả cha, rẫy cả vợ, gọi kẻ nọ là cha, gọi người kia là cụ, chẳng là con gái, như cô Bảo-Tuệ ấy thật nhiều, nở mũi ra đã thơ thơ, giấy giấy, tình tình, ngãi ngãi, kể từ lúc biết xuân cho đến khi xuất-giá, thề-thốt cũng được dăm chàng, chung-chạ cũng được vài kẻ, trai khôn bây giờ mười người đến tám chín người phải lấy vợ thừa thế-gian. Hỏng từ trên hỏng xuống, giai cũng như gái, trẻ cũng như già. Than ôi! trong một nước đã không còn biết danh-dự là cái gì nữa, tài-hoa là cái gì nữa, chí-khí là cái gì nữa, chỉ tối mắt cả vào « xu » mà thôi, thật là một cái nước đảo-điên bại-hoại lắm. Trách chi bà Án tham của, giận chi Bảo-Tuệ lỗi nguyền, đeo làm gì cái khổ-não, xin cùng nhau ta cùng xám-hối, cố gọi hồn liêm-sỉ lại, làm sao cho nhân-tâm được thuần-chính, danh-dự được xương-minh, phong-hóa được lương-thiện, kẻ làm quan người làm báo làm sách, đôi bên cùng hợp nhau lại ta cùng làm, vất cái tình ái-luyến đi mà thi-hành cái nghĩa cao-thượng, cho non sông hoa cỏ nên vẻ-vang cùng với hoàn-cầu. Bọn mình mà còn phóng-khí trách-nhiệm, nay than nỗi phụ-tình, mai sầu đường duyên-bạc, thời trong nước còn ai là đứng trượng-phu?

Đồng-hồ đánh bốn giờ khuya hai người trằn-trọc cả hai không sao yên ngủ...

Vừa chợp mắt đã thấy tiếng xe rầm đường cái, bừng mắt ra sáng bạch rồi, giậy rửa mặt uống nước, hai người cùng nhau trò truyện, một lát, đồng-hồ đánh 7 tiếng, khách chào lui về.

Chủ-nhân ngồi bàn cất bút làm văn.

Viết năm 1918.