An-thanh-hầu 右 衛 殿 前 將 軍 安 清 侯, trốn sang Ai-lao. Vua nước ấy là Xạ Đẩu 乍 斗 cho đến xứ Cầm-châu 岑 州 (thuộc Trấn-man phủ, về đất Thanh-hóa). Ông Nguyễn Kim đến ở Cầm-châu rồi cho người đi tìm con cháu nhà Lê để đồ sự khôi phục. Đến năm quí-tỵ (1532) tìm được một người con rốt vua Chiêu-tôn tên là Duy-Ninh 維 寧 lập lên làm vua, tức là Trang tôn 莊 宗.
Khi ấy lại có một người tướng giỏi tên là Trịnh-Kiểm 鄭 檢, ở làng Sóc-sơn, huyện Vĩnh-lộc, phủ Quảng-hóa. Ông Nguyễn-Kim thấy người có tài, gả con gái là Ngọc-Bảo cho, để cùng ra sức giúp nhà Lê, dứt nhà Mạc.
Vua tôi nhà Lê nương-náu ở Cầm-châu để chiêu tập quân sĩ, mãi đến năm canh-tí (1540), ông Nguyễn-Kim mới đem quân về đánh Nghệ-an. Năm nhâm-dần (1542) Trang-tôn mới cất quân về đánh Thanh hóa và Nghệ an, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất Tây-đô, quan Tổng-trấn nhà Mạc là Dương-chấp Nhất 楊 執 一 ra hàng.
4. Quyền về họ Trịnh. — Năm ất-tỵ (1545) ông Nguyễn-Kim đem quân tiến lên đánh Sơn-nam, đi đến huyện Yên-mô bị ngươi Dương Chấp-Nhất là hàng-tướng nhà Mạc, đánh thuốc độc chết. Những binh quyền giao cả lại cho con rể là Trịnh-Kiểm.
Trịnh-Kiểm rút quân về Thanh-hóa lập hành-điện ở đồn Vạn lại (thuộc huyện Thụy-nguyên, Thanh-hóa) để cho vua ở, rồi chiêu mộ những kẻ hào kiệt luyện tập quân-sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc đánh họ Mạc.
Bấy giờ có những người danh sĩ như là bọn ông Phùng-khắc-Khoan 馮 克 寬 (tức là trạng Bùng), ông Lương-hữu-Khánh 梁 有 慶 đều vào giúp nhà Lê. Giang sơn bấy giờ chia làm hai: từ Thanh hóa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam-Triều; từ Sơn-nam trở ra thuộc về họ Mạc, làm Bắc-triều.
Năm bính-ngọ (1546) Mạc phúc-Hải mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc-Nguyên 莫 福 源, niên-hiệu Vĩnh-định.