Truyện Kiều (bản Trương Vĩnh Ký 1911)/Túy Kiều thi tập

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

TÚY-KIỀU THI TẬP



1. TÚY-KIỀU VỊNH TÍCH.

Giọt nước Tiền-đường chẳng rửa oan,
Phong hoa chưa trắng nợ hồng-nhan,
Lòng tơ còn vướng chàng Kim-trọng,
Gót ngọc không thanh chốn thủy quan,
Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp,
Một dây bạc mạng giứt cầm loan,
Cho hay những kẻ tài-tình lắm,
Trời bắt làm gương để thế-gian.

2. DU THANH MINH.

Vừa tiết xuân sang liễu xủ mành,
Dập-diều ai cũng hội thanh-minh,
Tro tàn lẩn-quẩn đàng xe-ngựa,
Gò đống xa gần nức yến-anh,
Nấm đất thương đau người chín suối,
Bên cầu gặp-gở khách ba sanh,
Tình kia kiểng nọ càng lai-láng,
Khi trở gót hài bóng đã chênh.

3. NGỘ KIM-TRỌNG.

Trong tiết thanh-minh hội dập-diều,
Tình-cờ gây dựng truyện Kim Kiều,
Lạc vàng trổi tiếng cương dừng lại,
Cây ngọc xa chừng mắt ghé theo,

Đoạn thảm chưa nguôi thơ mả vắn,
Cơn buồn như giục cảnh trời chiều,
Mối tơ rối-rắm vương từ đấy.
Tài bấy nhiêu tình cũng bấy nhiêu.

4. TƯƠNG-TƯ

Bóng trăng hé-hé giọi bên lầu,
Ngồi với trăng mà ngở những đâu.
Trăm mối vò tơ lần gở khắc.
Một mình nương gối trót canh thâu,
Ba sanh âu hản còn vương nợ.
Tấc dạ nay khôn dập mối sầu.
Mới biết tương-tư là thể ấy.
Cho hay chớ trách kẻ ôm cầu.

5. MỘNG ĐẠM-TIÊN

Trước loan nương gối giấc vừa êm,
Chợt thấy người đâu độ thiểu niên.
Tha-thướt phô màu in vóc tố,
Thanh tân dạng dấu chốn đào nguyên.
Giất tan gối điệp bâng-khuâng những.
Sầu vẫn canh gà chất-chứa nên,
Còn nghĩ chưa xong duyên phận ấy,
Bóng trăng đâu đã xế ngoài hiên.

6. HOA VIÊN NGỘ.

Thơ-thẩn vườn xuân dạo gót chơi,
Thướt-tha bóng liễu buổi êm trời.
Trên đào đương mó hoa cười gió,
Góc núi xa nghe khách ướm lời.

Ngơ-ngẫn hương e cùng phấn lệ,
Mơ-màng lá rụng với hoa rơi.
Một rằng duyên phận hai rằng nợ,
Mây nước lòng người dễ chắc thôi?

7. KIỀU VÃNG TRỌNG HIÊN.

Những là rày gió với mai mưa,
Lần-lựa nên mang tiếng hẩng-hờ.
Cam tệ bấy lâu tin nhạn vắng,
Nên giờ gọi chút tạ tình xưa.
Lời thề vững một niềm son-sắt.
Vừng nguyệt soi chung dạ tóc-tơ.
Sông dải non mai duyên vẫn thắm.
Tuyết-sương kẻo chẳng vẹn công chờ.

8.. TỐNG TRỌNG QUI TANG.

Đau lòng ai lắm hởi ai ôi!
Thệ hải minh sơn đã có rồi,
Mối thảm ngậm-ngùi khi sẽ nữa,
Bước đường ngần-ngại lúc chia đôi,
Tháng ngày đành phận ba thu lụn,
Mưa gió thương người mấy dặm khơi.
Hai chữ đồng tâm cùng tạc để,
Mặc ai trăng gió dám sai lời.

9. VĂN TỤNG TỪ.

Thương ôi cá thớt biết sao đây!
Bay-bốc ai làm đến nỗi nầy!
Cơ biến khó đem tình hậu bạc.
U-minh khôn bạch nổi gian ngay.

Bơ-vơ chín khúc tơ tằm rối,
Lã-chã năm canh nước mắt dầy.
Bát-ngát đêm thu chong bóng thỏ.
Nỗi niềm tâm sự có ai hay?

10. THỌ GIÁM-SANH SÍNH.

Thương hại cùng ai chốc bấy lâu!
Xa-xôi biết có thấu cho nhau?
Phải đam vàng đá ghi lời trước.
Gởi vuối non sông trả nghĩa sau.
Đành phận lưu-ly chi sá quản,
Những người xa cách nghĩ mà đau!
Cũng liều nhắm mắt đưa chơn vậy,
Xem thữ xây vần mãi đến đâu?

11. THỊ VÂN ĐẠI GIÁ

Miệng ngập-ngừng thay dạ xót-xa!
Ai ngờ bình địa nỗi phong ba!
Sớm nương gối phụng xe dây-sắt,
Hòm để gương loan thẹn bóng nga.
Thương kẻ quan-sơn khơi dợn bước!
Xót thân bèo-bọt dãi dầu hoa!
Dấu xưa còn đoái tờ mây đó,
Như có cho đành kẻ bước ra.

12. DỮ MÃ ĐĂNG TRÌNH.

Giấc mộng còn mơ ngãi cố-tri,
Tiếng gà đâu đã giục ra đi.
Trông mây dường vẽ tình lưu-lạc,
Nghe nói như đờn khúc-biệt ly.

Ví biết thân nầy ra phận thế,
Thì đừng ngày trước nặng nguyền chi?
Còn non còn nước còn trăng đó,
Thì nợ Châu Trần cũng có khi.

13. BIỆT MÃI THANH LÂU TÚ-BA.

Từ ngày xa cách chốn tha hương.
Xót phận lưu ly đãi tuyết sương,
Vẻ mặt những là dơ dạng phấn,
Châu mày thêm luống thẹn-thùng gương.
Trời ghen chi mãi người tư sắc,
Tên bắt đem vào số đoạn-trường?
Nông-nổi dường nầy ai có biết,
Một mình mình nghĩ lại mình thương!

14. LẦU THƯỢNG ĐỀ SẦU.

Quê người võ-võ biết bao lâu?
Buồn dựa song đào đoái trước sau.
Ngọn nước lênh-đênh quanh trước án,
Đóa hoa xiêu-lạc biết về đâu?
Ngõ phán láng tử ngoài muôn dặm.
Mặt nước chơn mây lẩn một màu?
Phong-cảnh kìa ai phong-cảnh ấy?
Cám tình lưu lạc một đôi câu.

15. TRÚNG SỞ KHANH KẾ.

Nghĩ người tế độ kẻ trầm-luân.
Nên chắc đinh ninh hết nợ trần,
Nương gió không ngờ bay mắc lưới.
Xe dây đâu lại buộc vào chơn!

Hồng liên phải lép cung Tần-tử,
Hoa mấy lần kinh trống chúa xuân?
Trong cuộc đoạn-trường chưa bước khỏi,
Trời làm nào có trách chi thân?

16. DỮ THÚC THÀNH HÔN

Trăng gió mà ra cuộc đá vàng,
Lưng-lưng giũ sạch nợ hồng-nhan,
Hạ qua nắng dãi xen màu nhụy,
Xuân đến mưa dày liễu vẻ-vang,
Ngày vắng im-liềm chăn túy võ.
Đêm thanh khoan-nhặc khúc cầm loan,
Tuy trong chưa biết duyên hay nợ,
Mầng trộm cho thân thoát đoạn-tràng.

17. TỐNG THÚC NINH GIA.

Đã nặng nguyền xưa với nước non,
Nhưng cơ tạo hóa chửa vuông-tròn.
Quản bao bồ liễu hơi sương tuyết,
Chớ để nàng Dương tủi phấn son,
Một chén riêng đưa muôn dặm thẳng.
Đôi tình như gởi mối sầu tuôn,
Bao giờ người xử tờ xin nhủ?
Dặm nỗi đông phong chớ phụ-phàng?

18. QUI VÕ-TÍCH TÁC HOA-NÔ.

Gớm mặt hoa xanh những khéo là!
Ghen-tương theo mãi chẳng tha ra,
Má hồng phải lấp màu son phấn,
Vóc liễu đam vùi chốn cỏ hoa.

Bóng xế tây hiên quỳnh chén cúc.
Xuân lan đông các điểm hương trà.
Đào đà sa ngọc trong vòng ấy,
Gở đặng thì xuân cũng phải già.

19. THỊ THÚC HOẠN AM.

Trần-ai kia biết bỡi vì đâu?
Dẫu tuổi xuân xanh cũng bạc đầu.
Đọng giọt huỳnh hoa tan giọt lụy,
Lấp cung bạc mạng nổi cung sầu.
Khôn hay lặn-mọc do hàm cá.
Mà biết vuông tròn uốn lưỡi câu.
Ai dẫu có thương rằng phận bạc,
Liệu mà xin mở cửa cho nhau.

20. PHẬT CÁC THIÊN KINH.

Trải mấy thu chầy chốn lửa than?
Nâu sồng nay đỗi dạng hồng nhan.
Viết kinh-kệ để khuây trần niệm,
Chịu muối dưa qua vuối thế-gian.
Trải tháng ngày vui niềm Phật-lão,
Tính gang tấc mấy độ quan-san.
Thôi thôi nương gối Quan-âm vậy,
Thì nợ phong trần họa có tan.

21. KÍ NGỤ GIÁC-DUYÊN.

Mô-phật tình không phụ cố-tri,
Cũng vì cay-đắng phải sanh li.
Câu thơ cù mộc chưa ngâm hết.
Mà dải đồng tâm đã xé đi.

Kiểng quạnh đưa chơn dầu có nhớ,
Am thanh nương bóng họa là khi.
Sa cơ nghĩ bước phong trần trước,
Lại giựt mình thay nỗi bất kì.

22. NGỘ BẠC HẠNH.

Nghĩ kiếp đào hoa cũng lạ dường!
Lánh mà lại phải quỉ đem đường.
Đó trời thoát khỏi vườn tơ nguyệt,
Câu Lữ qua rồi mắc lưới Thang.
Như giống chim lồng trong sẵn gạo,
Đặng con hạc nội chịu không lương.
Cũng nhiều mặt phấn môi son vậy,
Riêng một thân ai sự xiết thương!

23. BẠC-SANH CHUYỂN MÃI THANH LÂU.

Hoa có ghen gì vuối chủ trương?
Mà toan dãi nắng lại dầm sương?
Má hồng lắm lúc trơ màu phấn,
Mặt ngọc nhiều phen thẹn bóng gương.
Mỏi mắt trông mong niềm cố quốc,
Êm chơn lưu-lạc chốn tha hương.
Ê-nề trong bấy nhiêu năm ấy,
Trường đoạn chưa thôi lại đoạn trường.

24. TỪ-HẢI ĐỀ DUYÊN.

Vổng lay còn vướng dạ xót thay!
Mưa gió đâu mà kéo đến ngay?
Cá chậu đam buông dòng nước chảy,
Chim lồng ra khỏi cửa trời bay.

Vẫy-vùng bốn bể bù khi trước.
Ngang-dọc trăm chìu bỏ bấy nay,
Hoa giải xuân về chưa gió tạnh.
Lại tan dầu tuyết cõi chơn mây.

25. CHÂU-THAI ĐÃI TỪ-CÔNG.

Võ-võ quê người chốc bấy nay!
Niềm riêng riêng nặng có ai hay?
Năm canh luống những chiêm-bao vẩn,
Ngàn dặm khôn ngăn chắp cánh bay.
Mấy độ sen tàn màu nắng lợt?
Đôi phen cúc nhuốm vẻ sương say.
Ba sinh đã biết duyên hay nợ.
Một gánh tương-tư nặng một ngày.

26. THĂNG CÔNG-ĐƯỜNG BÁO ĐÁP.

Nghĩ cơ tạo hóa lạ lùng thay!
Vô-tích sao mà lại có nay!
Dưới trướng phân-minh người hậu bạc.
Trên giường biện-bạch kẻ gian ngay.
Nợ tuy trả đặng, lòng còn tức,
Ơn dẫu đền xong, dạ chẳng khuây.
Nắng nhọc chẳng hiềm trong một phút.
Bận lòng nầy hết kể từ đây.

27. BAC TRIỀU HỒ-CÔNG THUYẾT HANG.

Hướng dương bao quản phận hoa quì.
Thì lại riêng đâu nỗi biệt-ly.
Kể có thần cơ trong sớm liệu,
Châu về Hiệp-phố họa là khi.

Uốn ba tấc lưỡi bày hơn thiệt,
Chống một thanh gươm rạch thị phi,
Dẫu có oai-linh lừng góc bể,
Bên trời chiết nhạn có ra chi?

28. THỐNG KHỐC TỪ-CÔNG.

Trời cao chẳng nhẽ thấu hay chăng,
Bỗng-chúc xuôi nên phụ tấm lòng.
Trăm trận oai-danh đèn dưới gió,
Năm năm công nghiệp bọt ngoài sông.
Trần-ai thương-hại người xương trắng,
Non nước bơ-vơ phận má-hồng.
Sự thế ai ngờ dâu hóa bể.
Thôi thời quyết một thác cho xong.

29. HẠ GIÁ THỔ-QUAN.

Đã ra nương-dựa mấy cây cao,
Có nhẽ đưa chơn lại bước vào,
Mặt ấy hẳn không tơ ấy vướng,
Thân nầy đâu có nợ nầy sao?
Đã thừa nếm trải mùi cay-đắng.
Còn thiếu chi mà phải ước-ao?
Ơn ấy âu thì theo hải thượng,
Sống thừa chi để tiếng đời phao?

30. ĐẦU TIỀN-ĐƯỜNG GIANG.

Thần mộng từ xưa kể xiết bao?
Sông Tiền-đường đó há đâu nào?
Nói thôi thoát đã lòa gương ngọc.
Thì đáp vừa xong bạc má đào.

Tài sắc vươn mang hình tạo-hóa,
Tình tơ khó vẽ trạng thanh-tao.
Trời xanh nỡ phụ xuân xanh ấy,
Có lẽ không đền nghĩa tấc giao?

31. NGƯ ÔNG CỨU MẠNG.

Mười lăm năm những bước long-đong!
Muốn phụ tình chung phụ há xong?
Còn vướng tình trong vòng tạo hóa,
Khó đem mình trả nợ non sông.
Bởi đưa chơn lánh miền phi thị,
Lại gởi duyên vào cửa sắc không.
Nên bỏ tấm thân dòng nước chảy,
Không hay thoát khỏi lưới ngư-ông.

32. DỮ GIÁC-DUYÊN.

Thân quan đôi-lứa vuối gia thân,
Chìm nỗi duyên nên nghĩa Tấn Tần,
Tuy có y như lời cựu ước,
Bao-giờ trả đặng nghĩa giai nhân?
Bể kia phỏng độ sâu bao nả,
Trời nọ dường như ngất mấy lần.
Ví bẳng thân nầy như yến-tử,
Quyết bay cho đến tận sông ngân.

33. KIM TRỌNG LẬP ĐÀN.

Nhờ nước từ-bi để rửa oan,
Gọi là cho thấu nghĩa minh san,
Giọt tuôn hòa lẫn mưa ngàn chảy.
Tình gởi đưa theo khói lửa tàn.

Tri quỉ ra chiêu miền thủy-quốc.
Vọng sơn nào thấy cõi nhơn-gian?
Gọi-là một chút bên sông vậy,
Cho kẻ oan hồn họa khỏi oan.

31. DỮ CHƯ THÂN CỌNG HỘI.

May sao may khéo thật là may!
Mười mấy năm trời lại có nay,
Mầng tủi biết bao ân ái cũ?
Công phu kia bỏ nước non nầy,
Nghĩ rằng phận bạc thôi thì hản,
Ai biết duyên còn vướng lại đây?
Bởi bấy nhiêu lâu nương cảnh tịnh.
Nên nhờ tế độ lại ra tay.

35. TRỌNG ĐỀ DUYÊN.

Luống những đào đông với liễu tây.
Mênh-mông trời bể bấy lâu nay,
Ngờ đâu cơ hội đền bồi đó,
Lại có nhơn-duyên gặp gỡ đây?
Ước cũ hãy còn trăng gió ấy,
Thề xưa chẳng thẹn nước non nầy.
Tỉnh dần giấc mộng huỳnh-lương dậy.
Cái nợ phong trần vỗ trắng tay.

36. GIÁC-DUYÊN DẪN TRỌNG KIẾM KIỀU.

Sớm buông rèm gió tối trăng hiên.
Nương gối từ-bi trải mấy phen.

Giồi vẽ nâu sồng pha má đỏ
Đam màu son phấn giả con-đen.
Ruổi dung phách lạc tan niềm tục,
Chuông trống hồn quê tỉnh giấc tiên.
Lánh gót bụi hồng nương cõi phật,
Họa là giũ sạch nợ trần duyên.

TÚY-KIỀU THI TẬP

CHUNG