Truyện Kiều (bản Trương Vĩnh Ký 1911)/Kim, Vân, Kiều phú
KIM, VÂN, KIỀU, PHÚ.
Diễn Minh triều đời vua Gia-tỉnh,
Có hai người con gái họ Vương:
Túy-Vân vốn nở-nang đầy đặn,
Túy-Kiều thêm sắc sảo khôn-ngoan:
Nước tóc duột-duột mày cũng kém,
Màu da phớt-phớt tuyết nên nhường.
Kim hay cả tài tình thi họa.
Lại lảo thông kinh sử văn chương.
Tiết thanh minh đi viếng mả Đạm-tiên,
Đấng thục nữ vã cùng loài hào kiệt.
Khi bán dạ hà phân cung cầm nguyệt.
Kết Châu trần giao ước với Kim-lang.
Ba sanh gắn-vó lửa hương.
Duyên kỳ ngộ chỉ vừng trăng bạc.
Muôn kiếp hẹn-hò ân ái,
Lời non sông khi tạc kim hoàn.
Ngọc thố, tây thành còn đóng nửa,
Kim ô, dòng bích chửa treo gương.
Ông Nguyệt xe ra duyên ngũ dạ,
Đạm-Tiên buộc lại số đoạn trường.
Nguyền ước chén thề lời chửa cạn,
Liêu-dương thơ nhạn đã đem sang.
Người lánh trong màng, xiết bao tình thảm-thiết!
Kẻ ra chờ cửa, khôn xiết nỗi thở-than!
Nghĩa cả tỏ lời trong thơ nhạn,
Tình sâu giã gót chốn phòng hương.
Tay cầm tay, gan vàng ngao-ngán,
Mặt trông mặt, nước-mặt ngỗn-ngang.
Thiếp thảm chàng ba đông dầu dãi.
Chàng thương thiếp muôn nỗi cưu-mang.
Ai khéo trêu duyên thiếp?
Ai mà khuấy số chàng?
Người về phòng, vò tơ chín khúc,
Kẻ gác an, lã-chã đôi hàng.
Nào ngờ gia-sự đa đoan,
Còn tưởng hiếu-tình đôi lẽ.
Đứa bán tơ một tiếng nói càn,
Ông Viên-ngoại trăm đàng rầu-rĩ.
Gan vàng đang đóm lửa đốt nồng,
Lằng xanh lại bẻ-bai mọi lẽ.
Dạ ái thơ còn nong-nả bồi-hồi.
Phường cò trắng khéo dỗ-dành thỏ thẻ.
Dâng thơ chuộc tội, Hớn thuở xưa có ả Đề-oanh.
Bán mình chuộc cha, Tần ngày nọ có nàng Lý-thị.
Đạo nhân sinh lấy hiếu làm dày,
Sẵn vàng bạc việc chi cũng dễ?
Cung phi thị ngự, cơn sa cơ khôn giữ giá làm sao.
Công chúa cấm cung, khi ngộ biến phải lấy mình làm nhẹ.
Vẹn tuyền chín chữ, chuộc tội cha dày.
Thiếp bán mình nhắn lại một hai lời.
Trả nghĩa nặng cậy em thay chị.
Một nhà mong-mỏi việc thung-dung,
Muôn dặm dầu xa-xuôi không nghĩ.
Ví dầu Kiều tử tiết suối vàng,
Đỗ-hiễn, Chung-công ra sức vị.
Tục diêu cò trắng sợ miệng trai,
Ngạn-ngữ ruồi xanh kinh cái vỉ.
Viên-ngoại từ thong-thả về nhà,
Nàng Kiều đã thẳng giong vó kí.
Đường trường thiên lý, ra tay chung mấy sức anh hùng.
Nguyệt các năm canh, quyết chi đọ cùng gan tráng-sĩ.
Trong dinh ra sức tướng-quân oai,
Ngoài trướng những mê thiên-tử khí.
Tới đến đây,
Lầu xanh trướng súy, vách trắng trăng treo,
Nửa tình nửa cảnh, như dập như diều.
Tầm thước đoan-trang, đầy-đặn tơ thăng long qui bối.
Hình-dong thục nử, tốt tươi như duyên trước thang treo.
Lúc chén rượu, lúc cuộc cờ,
Tống-ngọc Trường khanh nặng nặng suốt đêm đua cười-cợt.
Khi câu thơ, khi nét vẽ,
Vương-tôn quí-khách thường thường đầy thắng trận tiêu hao.
Khoan-thai khi nói khi cười,
Gió đông xui ong rời bướm rã.
Thong-thả lời ăn lẽ ở,
Sóng khuynh thành quán đổ đình xiêu.
Quốc-sĩ nhắm vào con-mắt chói,
Hồng-nhan trông thấy mặt xanh rì.
Bốn phương nào thấy ai xem bói,
Tám biển nào nghe tiếng khánh kêu.
Thầy tăng giã Phật về ăn mặn,
Thầy bói mượn người dắc-díu nhau.
Quan-thị tạ triều về uống thuốc,
Hòa-thượng cao tằng dể chẳng siêu.
Đường dọc đường ngang, người rấp-rốn,
Tào-tán cao kỉ, giá càng cao.
Chê những buổi:
Lúc cùng chẳng có, cơn túng phải liều.
Trinh-bạch chốn lầu xanh có tiếng.
Tài hoa nhìu bác địa đã treo,
Chẳng giữ già mà chờ vương bá,
Không cầm lòng mà đợi khách triều.
E hoa nguyệt từ trinh-bạch,
Rã cánh hoa cho bướm dấu-yêu.
Để gương kẻ đờn bà bắt-chước.
Làm lối cho thục-nữ soi theo.
Song xem đến:
Đầu đuôi các tích, sau trước mọi đều,
Tình không nên trách, lẽ cũng khá yêu.
Một mình vì nước vì tình, hiếu tình đã vẹn.
Hai lẽ trả ân trả oán, ân oán chửa tiêu.
Lâm-tri, Võ-tích thảm-thương, thế hèn phải khuất.
Vãi-mụ, Bạc-sinh lừa đảo, cơn túng phải liều.
Nghĩ mấy câu thần mộng hẹn-hò,
Số bồ liễu nợ trần chưa trả.
Liều cho nhám má hồng mòn-mỏi,
Mười lăm năm thấm-thoát có là bao?
Lầu xanh hay mấy mặt làng chơi,
Chẳng sá những muông cầm cùng loài thú.
Cửa thập nhị hàng, tay pháp giái,
Dầu là chẳng tháng Thuấn với ngày Nghiêu.
Tới khi gặp đức đại vương,
Mười vị tướng quân xe đón rước,
Gặp lúc lên xe hoàng-hậu,
Cung nga thể nữ lại tiên-thiều.
Tướng sĩ khấu đầu, văn võ bá quan vâng lệnh chỉ.
Nam thành nổi trống, tinh binh mười vạn mở cờ đào.
Thật là văn võ lược thao,
Trăm trận người nghiêng trời một góc.
Chẳng thiếu bá vương cô quả,
Năm năm hùng-cứ cõi đông giao.
Hãm trận bạt thành, những sức anh-hùng nào dám đọ?
Đai cơm bầu nước, những loài tiều loại có xem sao?
Cậy sức uy-linh, phận gái ra tay làm sấm sét.
Sẵn-sàng tướng-sĩ, ba quân vâng lệnh chỉ cờ mao.
Võ-tích áp vào nơi các tía,
Lâm-tri thẳng tới chốn lầu cao
Trong quân mở bức trướng hùm.
Giáp mặt mới dắc Sư lên ngồi giữa.
Thủ hạ rút gươm cắp mộc,
Mở cửa ra cho tướng nạp tù vào.
Ơn xưa Sư-trưởng, Thúc-sanh,
Vàng ngàn lượng tạ ơn trả nghĩa,
Oán nọ làng chơi kẻ cướp.
Nhọc ba quân mòn đá mài đao.
Nghĩa cả tình còn ghi bén dạ,
Biển oan sóng đã đặng như xao.
Còn mong trả nghĩa cù lao, ra oai anh chúa.
Tin Hồ-công bày chước về hàng,
Vì việc nước mà mang tiếng phụ.
Sông Tiền-đường sóng biếc mấy lần sâu?
Người trinh tiết danh lưu thiên cổ.
Nàng Đạm-tiên đằng vân giá vỏ, đón rước bên sông.
Sông Tiền-đường cải tử hoàn sinh, nhờ tay ngư phủ.
Giác-duyên nhớ ngàn vàng ngãi cũ,
Rước nàng về ở cảnh thanh-nhàn.
Chàng Kim nghe thế giặc đã tan,
Ruổi xe tới Tiền-đường mới tỏ.
Bên giang đắp mả, nghe tin còn trăm nổi hồ-nghi.
Cửa Phật thấy nàng, phân một giây muôn phần vui-vẻ.
Miếng đỉnh chung chung đều vinh-hiển,
Ai ngờ loan phụng lại hiệp hòa như cũ.
KIM, VÂN, KIỀU PHÚ
CHUNG