Bước tới nội dung

Việt Nam sử lược/Quyển I/Phần II/Chương V

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG V

BẮC THUỘC LẦN THỨ BA

( 603 — 939 )

I. NHÀ TÙY:
Việc đánh Lâm-ấp

II. NHÀ ĐƯỜNG
III. ĐỜI NGŨ-QUÍ

I. NHÀ TÙY (589-617)

VIỆC ĐÁNH LÂM-ẤP. Nhà Tùy 隋 làm vua bên Tàu được 28 năm thì mất. Trong bấy nhiêu năm thì sử không chép chuyện gì lạ, chỉ nói rằng năm ất-sửu (605), vua nhà Tùy nghe nói ở Lâm-ấp có nhiều của, bèn sai tướng là Lưu Phương đem quân đi đánh.

Vua Lâm-ấp lúc bấy giờ là Phạm phạm Chí 梵 范 志 đem quân ra giữ những chỗ hiểm-yếu, ở bên này sông Đồ-lê (?) để chống cự với quân Tàu. Nhưng chẳng bao lâu quân Lâm-ấp phải thua bỏ chạy. Lưu Phương thừa thế tiến quân sang sông đuổi đánh, gặp đại binh Lâm-ấp kéo đến, có nhiều voi, thế rất mạnh. Lưu Phương bèn dùng mưu: sai quân đào hố lấy cỏ phủ lên, rồi sai quân ra đánh nhử, giả tảng bại trận. Quân Lâm-ấp đuổi theo được một quãng, voi sa xuống hố, quân-sĩ loạn cả. Khi bấy giờ quân Tàu mới quay trở lại lấy cung nỏ bắn, voi khiếp sợ xéo cả lên quân Lâm-ấp mà chạy. Lưu Phương cũng phải bệnh về đến nửa đường thì chết.


II. NHÀ ĐƯỜNG (618-907)

1. CHÍNH-TRỊ NHÀ ĐƯỜNG. Năm mậu-dần (618) nhà Tùy mất nước, nhà Đường 唐 kế nghiệp làm vua nước Tàu. Đến năm tân-tị (621) vua Cao-tổ nhà Đường 唐 高 祖 sai Khâu Hòa 邱 和 làm đại tổng-quản 大 總 管 sang cai-trị Giao-châu.

Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai-trị là nghiệt hơn cả. Nhưng sử chép lược quá: thường cách hai ba năm mới chép một việc, chắc là những nhà làm sử nước ta sau cứ theo sử Tàu chép lại, cho nên mới sơ-lược như vậy.

2. AN-NAM ĐÔ-HỘ PHỦ. Năm kỷ-mão (679) vua Cao-tông nhà Đường 唐 高 宗 chia đất Giao-châu ra làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An-nam đô-hộ-phủ 安 南 都 護 府 [1].

Nước ta gọi là An-nam khởi đầu từ đấy.

Mười hai Châu đời nhà Đường là những châu này:

1. Giao-châu 交 州 có 8 huyện (Hà-nội, Nam-định v.v.)
2. Lục-châu 陸 州 có 3 huyện (Quảng-yên, Lạng-sơn)
3. Phúc-lộc châu 福 祿 州 có 3 huyện (Sơn-tây)
4. Phong-châu 峰 州 có 3 huyện (Sơn-tây)
5. Thang châu 湯 州 có 3 huyện (?)
6. Trường-châu 長 州 có 4 huyện (?)
7. Chi-châu 芝 州 có 7 huyện (?)
8. Võ-nga-châu 武 峨 州 có 7 huyện (?)
9. Võ-an-châu 武 安 州 có 2 huyện (?)
10. Ái-châu 愛 州 có 6 huyện (Thanh-hóa)
11. Hoan-châu 驩 州 có 4 huyện (Nghệ-an)
12. Diễn-châu 演 州 có 7 huyện (Nghệ-an)

Ở về phía tây-bắc đất Giao-châu lại đặt một châu nữa, gọi là Man-châu 蠻 州 gồm cả những Mường ở mạn ấy, lệ cứ hằng năm phải triều cống vua nhà Đường.

Ấy là đại-để cách chính-trị nhà Đường như vậy. Còn thường thì cũng loạn-lạc luôn: khi thì người trong nước nổi lên đánh phá như Mai Hắc-đế và Bố-cái đại-vương; khi thì những nước ở ngoài vào xâm-phạm, như nước Hoàn-vương và nước Nam-chiếu.

3. MAI HẮC-ĐẾ (722). Năm nhâm-tuất (722) là năm Khai-nguyên thứ 10 về đời vua Huyền-tông 玄 宗 nhà Đường, ở Hoan-châu có một người tên là Mai thúc Loan 梅 叔 鸞 nổi lên chống cự với quân nhà Đường.

Mai thúc Loan là người huyện Thiên-lộc, tức là huyện Can-lộc, tỉnh Hà-tĩnh bây giờ, mặt mũi đen sì, sức-vóc khỏe-mạnh, thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn-bạo, dân-gian khổ-sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm giặc-giã, ông ấy bèn chiêu-mộ những người nghĩa-dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ ở đất Hoan-châu (nay thuộc huyện Nam-đường tỉnh Nghệ-an) rồi xây thành đắp lũy, xưng hoàng-đế, tục gọi là Hắc-đế 黑 帝.

Mai Hắc-đế lại kết hiếu với nước Lâm-ấp và nước Chân-lạp để làm ngoại viện.

Vua nhà Đường sai quan nội-thị là Dương tư Húc 楊 思 拗 đem quân sang cùng với quan Đô-hộ là Quang sở Khách 光 楚 客 đi đánh Mai Hắc-đế. Hắc-đế thế yếu chống không nổi phải thua chạy, được ít lâu thì mất.

Nay ở núi Vệ-sơn 衞 山 huyện Nam-đường, tỉnh Nghệ-an, còn có di-tích thành cũ của vua Hắc-đế, và ở xã Hương-lãm, huyện Nam-đường còn có đền-thờ.

4. GIẶC BỂ. Năm đinh-vị (767) là năm Đại-lịch thứ 2, đời vua Đại-tông 代 宗 nhà Đường, sử chép rằng có quân Côn-lôn 崑 崙 và quân Đồ-bà 闍 婆 là quân ở những đảo ngoài bể vào cướp phá đất Giao-châu, lên vây các châu-thành.

Quan Kinh-lược-sứ là Trương bá Nghi 張 伯 儀 cùng với quan Đô-úy là Cao chính Bình 高 正 平 đem quân đánh phá được lũ giặc ấy. Trương bá Nghi bèn đắp La-thành 羅 城 để phòng thủ phủ-trị. La-thành khởi đầu từ đấy.

5. BỐ-CÁI ĐẠI-VƯƠNG (791). Năm tân-vị (791) quan Đô-hộ là Cao chính Bình bắt dân đóng sưu-thuế nặng quá, lòng dân oán-giận. Khi bấy giờ ở quận Đường-lâm 唐 林 (bây giờ là làng Cam-lâm, huyện Phúc-thọ, tỉnh Sơn-tây) có người tên là Phùng Hưng 馮 興 nổi lên đem quân về phá phủ Đô-hộ. Cao chính Bình lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ-thành, được mấy tháng thì mất. Quân-sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An 馮 安 lên nối nghiệp. Dân ái-mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên làm Bố cái Đại-vương 布 蓋 大 王, bởi vì ta gọi cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ.

Tháng 7 năm tân-vị ấy, vua nhà Đường sai Triệu Xương 趙 昌 sang làm Đô-hộ. Phùng An liệu thế chống không nổi xin ra hàng.

6. VIỆC ĐÁNH NƯỚC HOÀN-VƯƠNG. Nước Lâm-ấp từ khi bị tướng nhà Tùy là Lưu Phương sang đánh, rồi quốc-vương là Phạm phạm Chí dâng biểu tạ tội và xin triều cống như cũ. Đến quãng năm Trinh-quan đời vua Thái-tông 太 宗 nhà Đường, vua Lâm-ấp là Phạm đầu Lê 范 頭 黎 mất, con là Phạm trấn Long 范 鎭 龍 cũng bị người giết, dân trong nước mới lập người con của bà cô Phạm đầu Lê, tên là Chư cát Địa 諸 葛 地 lên làm vua.

Chư cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn-vương-quốc 環 王 國. Từ đó về sau thường thường người nước Hoàn-vương lại sang quấy-nhiễu ở Giao-châu, và chiếm giữ lấy châu Hoan và châu Ái.

Năm mậu-tí (808) đời vua Hiến-tông 憲 宗, quan Đô-hộ là Trương Chu 張 舟 đem binh-thuyền đi đánh giết hại quân Hoàn-vương rất nhiều. Vua nước ấy bèn lui về ở phía nam (ở vào quãng tỉnh Quảng-nam, Quảng-nghĩa bây giờ) và đổi quốc-hiệu là Chiêm-thành 占 城.

7. NAM-CHIẾU CƯỚP PHÁ GIAO-CHÂU. Về cuối đời nhà Đường, quan-lại Tàu lắm người chỉ vì tư lợi, ức-hiếp nhân-dân như Đô-hộ Lý Trác 李 琢 cứ vào những chợ ở chỗ Mường-mán mua trâu mua ngựa, mỗi con chỉ trả có một đấu muối, rồi giết tù-trưởng 酋 長 mán là Đỗ tồn Thành 杜 存 城. Vì thế cho nên người Mường-mán tức giận bèn dụ người Nam-chiếu sang cướp-phá, làm cho dân Giao-chỉ khổ-sở trong 10 năm trời.

Ở phía tây-bắc đất Giao-châu, tức là ở phía tây tỉnh Vân-nam bây giờ có một xứ người nòi Thái ở. Người xứ ấy gọi vua là chiếu 詔. Trước có 6 chiếu là Mông-huề 蒙 雟, Việt-thác 越 柝, Lãng-khung 浪 穹, Đằng-đạm 邆 賧, Thi-lãng 葹 浪, Mông-xá 蒙 舍. Chiếu Mông-xá ở về phía nam nên gọi là Nam-chiếu 南 詔.

Trong khoảng năm Khai-nguyên (713-742) đời vua Huyền-tông nhà Đường, Nam-chiếu là Bì-la-Cáp 皮 羅 閣 cường-thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy-hèn đi. Bì-la-Cáp mới đút lót cho quan Tiết-độ-sứ đạo Kiếm-nam 劍 南 節 度 使 là Vương Dục 王 昱 để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều-đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui-nghĩa 歸 義. Từ đó Nam-chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ-phồn 吐 蕃 (Tây-tạng) rồi dời đô lên đóng ở thành Thái-hòa 太 和 (thành Đại-lý 大 理 bây giờ).

Năm bính-dần (846) quân Nam-chiếu sang cướp ở Giao-châu, quan Kinh-lược-sứ là Bùi nguyên Dụ 裴 元 裕 đem quân đánh đuổi đi.

Năm mậu-dần (858), nhà Đường sai Vương Thức 王 式 sang làm Kinh-lược-sứ. Vương Thức là người có tài-lược, trị dân có phép-tắc, cho nên những giặc-giã đều dẹp yên được cả, mà quân Mường và quân Nam-chiếu cũng không dám sang quấy nhiễu.

Năm canh-thìn (860), nhà Đường gọi Vương Thức về làm Quan-sát-sứ ở Tích-đông 淅 東 và sai Lý Hộ 李 鄠 sang làm Đô-hộ.

Bấy giờ Nam-chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng là đế và đặt quốc-hiệu là Đại-mông 大 蒙 rồi lại đổi là Đại-lễ 大 禮 [2]. Lý Hộ giết người tù trưởng là Đỗ thủ Trừng 杜 守 澄, người Mường lại đi dụ quân Nam-chiếu sang đánh lấy mất phủ thành. Lý Hộ phải bỏ chạy về Tàu. Vương Khoan 王 寬 đem binh sang cứu, quân Nam-chiếu bỏ thành rút về.

Năm nhâm-ngọ (862), quân Nam-chiếu sang đánh Giao-châu, nhà Đường sai Thái Tập 蔡 襲 đem ba vạn quân sang chống giữ. Quân Nam-chiếu thấy quân nhà Đường nhiều lại rút về. Bấy giờ có quan Tiết-độ-sứ Lĩnh-nam là Thái Kinh 蔡 京 sợ Thái Tập lập được công to bèn mật tâu với vua nhà Đường rằng Giao-châu đã yên, thì nên rút quân về. Thái Tập xin để lại 5.000 quân cũng không được.

Tháng giêng năm quí-mùi (863), Nam-chiếu đem 50.000 quân sang đánh phủ thành. Thái Tập cầu cứu không kịp, thế bức quá phải tự-tử. Trận ấy có tướng nhà Đường là Nguyên duy Đức 元 維 德 đem hơn 400 quân Kinh-nam 荊 南 chạy ra đến bờ sông, thuyền bè không có, Nguyên duy Đức bảo chúng rằng chạy xuống nước cũng chết, bất nhược trở lại đánh nhau với giặc, một người đổi lấy hai người thì chẳng lợi hơn hay sao. Nói đoạn quay trở lại giết được hơn 2.000 người, nhưng đêm đến tướng Nam-chiếu là Dương tư Tấn 楊 思 縉 đem binh đến đánh, bọn Nguyên duy Đức chết cả.

Quân Nam-chiếu vào thành giết hại rất nhiều người. Sử chép rằng Nam-chiếu hai lần sang đánh phủ thành, giết người Giao-châu hơn 15 vạn.

Vua Nam Chiếu là Mông thế Long 蒙 世 隆 cho Dương tư Tấn 楊 思 縉 quản lĩnh 20.000 quân và cho Đoàn tù Thiên 段 酋 遷 làm Tiết-độ-sứ ở lại giữ Giao-châu.

Vua nhà Đường hạ chỉ đem An-nam đô-hộ-phủ về đóng ở Hải Môn 海 門 (?), rồi lấy quân các đạo về ở Lĩnh-nam 嶺 南 và đóng thuyền lớn để tải lương-thực, đợi ngày tiến binh.

Mùa thu năm giáp-thân (864) vua nhà Đường sai tướng là Cao Biền 高 駢 sang đánh quân Nam-chiếu ở Giao-châu.

8. CAO BIỀN BÌNH GIẶC NAM-CHIẾU. Cao Biền là người tướng giỏi nhà Đường, vốn dòng võ-tướng-môn, tính ham văn-học, quân sĩ đều có lòng mến-phục.

Năm ất-dậu (865), Cao Biền cùng với quan Giám-quân là Lý duy Chu 李 維 周 đưa quân sang đóng ở Hải-môn. Nhưng Lý duy Chu không ưa Cao Biền, muốn tìm mưu làm hại. Hai người bàn định tiến binh. Cao Biền dẫn 5.000 quân đi trước, Lý duy Chu không phát binh tiếp ứng.

Tháng chín năm ấy quân rợ đang gặt lúa ở Phong-châu (huyện Bạch-hạc, tỉnh Vĩnh-yên), Cao Biền đến đánh cất-lẻn một trận, giết được nhiều người, rồi lấy thóc gạo nuôi quân-lính.

Đến tháng 4 năm sau (866), Nam-chiếu cho bọn Dương Tập 楊 緝, Phạm nê Ta 范 跜 些, Triệu nặc Mi 趙 諾 眉 sang giúp Đoàn tù Thiên để giữ Giao-châu. Khi bấy giờ có tướng nhà Đường là Vi trọng Tể 韋 仲 宰 đem 7.000 quân mới sang, Cao Biền nhân dịp mới phát binh đánh được mấy trận, cho người đưa tin thắng trận về Kinh, nhưng mà đi đến Hải-môn, Lý duy Chu giữ lại, không cho triều-đình biết.

Trong triều mãi không thấy tin tức gì, cho ra hỏi, thì Lý duy Chu tâu dối rằng Cao Biền đóng quân ở Phong-châu không chịu đánh giặc. Vua nghe tin ấy, nổi giận sai Vương án Quyền 王 晏 權 ra thay, và đòi Cao Biền về hỏi tội. Ngay tháng ấy Cao Biền phá quân Nam-chiếu và vây La-thành đã được hơn 10 ngày rồi, chỉ nay mai thì lấy được, bỗng chốc được tin Vương án Quyền và Lý duy Chu sang thay. Cao Biền liền giao binh-quyền cho Vi trọng Tể, rồi cùng với mấy người thủ-hạ về bắc. Nhưng trước Cao Biền đã sai người đi lẻn về Kinh dâng biểu tâu rõ tình-trạng. Vua nhà Đường biết rõ sự-tình, mừng lắm, lại cho Cao Biền thăng trật và sai trở sang cầm quân đánh Nam-chiếu.

Bọn Vương án Quyền và Lý duy Chu lười-biếng không vây đánh gì cả, đến khi Cao Biền trở sang mới đốc quân-binh đánh thành, giết được Đoàn tù Thiên và người thổ làm hướng-đạo là Chu cổ Đạo 朱 古 道. Còn những động Mán-thổ ở các nơi xin về hàng rất nhiều.

Đất Giao-châu bị Nam-chiếu phá hại vừa 10 năm, đến bấy giờ Cao Biền lại lấy lại, đem về nội thuộc nhà Đường như cũ.

9. CÔNG-VIỆC CỦA CAO BIỀN. Vua nhà Đường đổi An-nam làm Tĩnh-hải 靜 海, phong cho Cao Biền làm Tiết-độ-sứ. Cao Biền chỉnh-đốn mọi công-việc, lập đồn-ải ở mạn biên-thùy để phòng giữ giặc-giã, làm sổ sưu-thuế để chi dụng việc công[3]. Cao Biền trị dân có phép tắc cho nên ai cũng kính-phục, bởi vậy mới gọi tôn lên là Cao-vương 高 王.

Cao Biền đắp lại thành Đại-la 大 羅 ở bờ sông Tô-lịch 蘇 瀝 江. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc (?).

Sử chép rằng Cao Biền dùng phép phù-thủy khiến Thiên-lôi phá những thác-ghềnh ở các sông để cho thuyền-bè đi được. Thiên-lôi ấy có lẽ là Cao Biền dùng thuốc súng chăng?

Tục lại truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao-châu ta lắm đất đế-vương, thường cứ cỡi diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ sơn-thủy đẹp, và hại mất nhiều long-mạch. Những chuyện ấy là chuyện ngoa ngôn, không có lẽ gì mà tin được.

Năm ất-vị (875) vua nhà Đường sai Cao Biền sang làm Tiết-độ-sứ ở Tây-xuyên (Tứ-xuyên). Biền dâng người cháu họ là Cao Tầm 高 潯 làm Tiết-độ-sứ ở Giao-châu.

Nhà Đường tuy lấy lại được đất Giao-châu nhưng bên Tàu lại sắp loạn, giặc cướp dần dần nổi lên, ngôi nhà vua cũng dần dần sắp đổ, nước Tàu lại chia rẽ làm mấy nước, cho nên ở xứ Giao-châu cũng có sự biến-cải.

10. SỰ TRỊ-LOẠN CỦA NƯỚC TÀU. Xét chuyện nước Tàu từ đời nhà Hán 漢 cho đến đời bấy giờ, cứ mỗi nhà lên cầm quyền chính-trị được vài ba trăm năm, rồi trong nước lại biến loạn, nam bắc phân tranh độ chừng năm bảy mươi năm, khi ấy có một nhà đứng lên dẹp loạn yên nước, lập lên cơ-nghiệp một nhà khác.

Phàm sự trị-loạn thay-đổi trong một xã-hội là thường lý, nhưng chỉ lạ có một điều mấy lần bên Tàu loạn cũng tương-tự như nhau cả. Xem như khi nhà Hán suy, thì nước Tàu phải loạn Tam-quốc; hết Tam-quốc thì có nhà Tấn nhất-thống. Đến khi nhà Tấn suy, thì có Nam Bắc-triều; hết Nam Bắc-triều thì có nhà Đường nhất-thống. Nay thì nhà Đường suy lại phải cái loạn Ngũ-Quí. Cái cơ-hội trị-loạn bên Tàu giống nhau như thế là cũng có lẽ tại cái phong-tục và cái xã-hội của Tàu. Sự giáo-dục không thay-đổi, nhân-quần trong nước không tiến-bộ, cách tư-tưởng không khai-hóa, cho nên nước tuy lâu đời, mà trình-độ xã-hội vẫn đứng nguyên một chỗ. Khi có biến-loạn là chỉ có mấy người có quyền-thế tranh-cạnh với nhau, chứ dân trong nước hễ thấy bên nào mạnh là làm tôi bên ấy. Nhà Hán làm vua là dân nhà Hán, nhà Đường làm vua là dân nhà Đường, việc gì cũng đổ cho thiên-mệnh, làm dân chỉ biết thuận-thụ một bề mà thôi.

Xứ Giao-châu mình tự đời nhà Hán cho đến đời Ngũ-Quí vẫn là đất nội thuộc của Tàu, cho nên sự trị-loạn bên Tàu cũng ảnh-hưởng đến nước mình. Nhờ khi bên Tàu loạn-lạc, người Tàu bận việc nước, thì bên Giao-châu cũng rục-rịch tự lập được ba năm. Nhưng chỉ vì nước thì nhỏ, người thì ít, mà người trong nước lại không biết đồng tâm với nhau, không hiểu các lẽ hợp-quần đoàn-thể là thế nào, cho nên không thành công được.


III. ĐỜI NGŨ-QUÍ (907-959)

1. TÌNH-THẾ NƯỚC TÀU. Năm đinh-mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu-Lương 後 梁, Hậu-Đường 後 唐, Hậu-Tấn 後 晉, Hậu-Hán 後 漢, Hậu-Chu 後 周, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ-Quí 五 季 hay là Ngũ Đại 五 代.

2. HỌ KHÚC DẤY NGHIỆP: KHÚC THỪA DỤ (906-907). Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Tàu loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy-quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế-lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở Giao-châu, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là thừa Dụ 曲 承 裕, quê ở Hồng-châu (thuộc địa-hạt Bình-giang và Ninh-giang ở Hải-dương). Khúc thừa Dụ vốn là một người hào-phú trong xứ, mà tính lại khoan-hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính-phục. Năm bính-dần (906) đời vua Chiêu-tuyên nhà Đường 唐 昭 宣, nhân khi trong châu có loạn, chúng cử ông ấy lên làm Tiết-độ-sứ 節 度 使 để cai-trị Giao-châu. Nhà Đường lúc bấy giờ suy-nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh-hải Tiết-độ-sứ và gia phong Đồng-bình-chương-sự 同 平 章 事.

Năm sau nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu-Lương 後 梁 phong cho Lưu-Ẩn 劉 隱 làm Nam-bình-vương 南 平 王, kiêm chức Tiết-độ-sứ Quảng-châu và Tĩnh-hải, có ý để lấy lại Giao-châu.

Khúc thừa Dụ làm Tiết-độ-sứ được non một năm thì mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo 曲 顥.

3. KHÚC HẠO (907-917). Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết-độ-sứ, lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan-lại, sửa-sang việc thuế-má, việc sưu-dịch và lại cho con là Khúc thừa Mỹ 曲 承 美 sang sứ bên Quảng-châu, tiếng là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để dò-thám mọi việc hư thực.

Lưu Ẩn ở Quảng-châu đóng phủ-trị ở Phiên-ngung được 4 năm thì mất. Em là Lưu Cung 劉 龔 (trước gọi là Lưu Nham 劉 巖) lên thay. Được ít lâu, nhân có việc bất bình với nhà Hậu-Lương, Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại-việt 大 越. Đến năm đinh-sửu (947) cải quốc hiệu là Nam-hán 南 漢.

4. KHÚC THỪA MỸ (917-923). Năm đinh-sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại cho con là Khúc thừa Mỹ. Khúc thừa Mỹ nhận chức Tiết-độ-sứ của nhà Lương, chứ không thần-phục nhà Nam-Hán. Vua nước Nam-Hán lấy sự ấy làm hiềm, đến năm quí-mùi (923) sai tướng là Lý khắc Chính 李 克 正 đem quân sang đánh bắt được Khúc thừa Mỹ, rồi sai Lý Tiến 李 進 sang làm thứ-sử cùng với Lý khắc Chính giữ Giao-châu.

5. DƯƠNG DIÊN NGHỆ VÀ KIỂU CÔNG TIỆN (931-938). Năm tân-mão (931) Dương diên Nghệ 楊 延 藝 là tướng của Khúc Hạo ngày trước mới nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý khắc Chính và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết-độ-sứ. Được 6 năm, Dương diên Nghệ bị người nha-tướng là Kiểu công Tiện 矯 公 羨 giết đi mà cướp lấy quyền.

6. NGÔ QUYỀN PHÁ QUÂN NAM-HÁN. Khi ấy có người tướng của Dương diên Nghệ là Ngô Quyền 吳 權 cử binh đi đánh Kiểu công Tiện để báo thù cho chúa. Ngô Quyền là người làng Đường-lâm 唐 林, cùng một làng với Phùng Hưng ngày trước (huyện Phú-thọ, tỉnh Sơn-tây) làm quan với Dương diên Nghệ. Dương diên Nghệ thấy người có tài-trí mới gả con gái cho, và phong cho vào giữ Ái-châu (Thanh-hóa). Khi được tin Kiểu công Tiện đã giết mất Dương diên Nghệ, Ngô Quyền liền đem quân ra đánh.

Kiểu công Tiện cho sang cầu cứu ở bên Nam-Hán, Hán-chủ nhân dịp cho thái-tử là Hoằng Tháo 弘 操 đưa quân đi trước, mình tự dẫn quân đi tiếp ứng.

Khi quân Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch-đằng 白 藤 江, thì bên này Ngô Quyền đã giết được Kiểu công Tiện (938), rồi một mặt truyền lệnh cho quân-sĩ phải hết sức phòng bị, một mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn, cắm ngầm ở dưới lòng sông Bạch-đằng, xong rồi chờ đến lúc nước thủy-triều lên, cho quân ra khiêu chiến; quân Nam-Hán đuổi theo, đến lúc nước xuống, Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam-hán thua chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cộc gỗ thủng-nát mất cả, người chết quá nửa. Hoằng Tháo bị Ngô Quyền bắt được, đem về giết đi.

Hán-chủ nghe tin ấy, khóc òa lên, rồi đem quân về Phiên-ngung, không dám sang quấy nhiễu nữa.

Ngô Quyền trong thì giết được nghịch-thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được cường-địch, bảo toàn được nước, thật là một người trung-nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc-thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau này được tự-chủ ở cõi Nam vậy.

NƯƠC TÀU VỀ ĐỜI NGŨ-QUÍ

  1. Nhà Đường lúc đó chia nhiều tỉnh bên Tàu ra làm Đô-hộ phủ như Tứ-xuyên Đô-hộ phủ, An-nam Đô-hộ phủ v.v. Vậy Đô-hộ là một chức quan chứ không phải là một chính-thể cai-trị các thuộc-địa như ta hiểu bây giờ.
  2. Đến đời Ngũ-Quí vào quãng nhà Hậu-Tấn có người tên là Đoàn tư Bình 段 思 平 lên làm vua đổi quốc-hiệu là Đại-lý 大 理 truyền đến đời Hồng-võ (1368-1392) nhà Minh mới mất.
    Nhà Minh đặt là Đại-lý phủ, thuộc về tỉnh Vân-nam.
  3. Có người bảo rằng người Việt-nam ta phải đóng sưu thuế khởi đầu từ Cao Biền.