Việt Nam sử lược/Quyển I/Phần III/Chương XIII

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG XIII

THUỘC NHÀ MINH

( 1414 — 1427 )

  1. Việc chính-trị nhà Minh
  2. Việc tế-tự
  3. Cách ăn-mặc
  4. Sự học-hành
  5. Việc trạm-dịch
  6. Việc binh-lính
  7. Phép hộ-thiếp và hoáng-sách
  8. Việc thuế-má
  9. Việc sưu-dịch
  10. Quan-lại

1. VIỆC CHÍNH-TRỊ NHÀ MINH. Trương Phụ lấy được châu Thuận-hóa và châu Tân-bình rồi, làm sổ biên số dân đinh ở hai châu ấy, đặt quan cai-trị và để quân-binh ở lại phòng giữ chỗ giáp-giới nước Chiêm-thành. Đến tháng 8 năm giáp-ngọ (1414) Trương Phụ và Mộc Thạnh về Tàu, đem những đàn-bà con-gái về rất nhiều.

Bọn Hoàng Phúc 黄 福 ở lại sửa-sang các việc trong nước để khiến cho người An-nam đồng-hóa với người Tàu. Lập ra đền-miếu, bắt người mình cúng-tế theo tục bên Tàu, rồi từ cách ăn-mặc cho chí sự học-hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàu cả. Còn cái gì là di-tích của nước mình như là sách-vở, thì thu-nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế-lệ, bổ thêm sưu-dịch để lấy tiền-của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ-nhục.

2. VIỆC TẾ-TỰ. Hoàng phúc bắt các phủ, châu, huyện phải lập văn-miếu và lập bàn thờ bách thần, xã-tắc, sơn xuyên, phong-vân để bốn mùa tế-tự.

3. CÁCH ĂN-MẶC. Bắt con-trai con-gái không được cắt tóc, đàn-bà con-gái thì phải mặc áo ngắn quần dài theo như người Tàu cả.

4. SỰ HỌC-HÀNH. Quan nhà Minh bắt mở nhà học ở các phủ, châu, huyện, rồi chọn những thầy âm-dương, thầy thuốc, thầy chùa, đạo-sĩ, ai giỏi nghề gì thì làm cho quan để dạy nghề ấy.

Vua nhà Minh lại xuống chỉ truyền lấy Ngũ Kinh, Tứ Thư và bộ Tính-lý đại-toàn, sai quan đưa sang ban cấp cho người An-nam học ở các châu huyện, rồi lại sai thầy tăng và đạo-sĩ ở Tăng-đạo-ti[1] đi truyền giảng đạo Phật và đạo Lão. Còn bao nhiêu những sách-vở của nước Nam, từ nhà Trần về trước thì thu lấy cả rồi đem về Kim-lăng.

Cứ theo sách Lịch-triều-hiến-chương văn-tịch-chí 歷 朝 憲 章 文 籍 志 của ông Phan huy Chú 潘 輝 注 thì những sách của nước Nam mà Tàu lấy về là những sách này:

Hình thư 刑 書 của vua Thái-tông nhà Lý 3 quyển
Quốc-triều thông lễ 國 朝 通 禮 của vua Thái-tông nhà Trần 10  »
Hình-luật 刑 律 của vua Thái-tông nhà Trần 1 »
Thường-lễ 常 禮 niên-hiệu Kiến-trung 10 »
Khóa-hư tập 課 虛 集 1 »
Ngự-thi 御 詩 1 »
Di-hậu lục 貽 後 錄 của vua Thái-tông nhà Trần 2 »
Cơ-cừu lục 箕 裘 錄 1 »
Thi-tập 詩 集 1 »
Trung-hưng thực-lục 中 興 實 錄, Trần Nhân-tông 2 »
Thi-tập 詩 集 1 »
Thủy-vân tùy-bút 水 雲 隨 筆, Trần Anh-tông 2 »
Thi-tập 詩 集, Trần Minh-tông 1 »
Trần-triều đại-điển 陳 朝 大 典, Trần Dụ-tông 2 »
Bảo-hòa-điện dư-bút 葆 和 殿 餘 筆 Trần Nghệ-tông 8 quyển
Thi tập 詩 集 1 »
Binh-gia yếu-lược 兵 家 要 略 Trần Hưng-đạo 1 bộ
Vạn-kiếp bí-truyền 萬 刧 秘 傳 Trần Hưng-đạo 1 »
Tứ-thư thuyết-ước 四 書 說 約 Chu văn Trinh 朱 文 貞 1 »
Tiều-ẩn thi 樵 隱 詩 1 tập
Sầm-lâu tập 岑 樓 集, Uy-văn-vương Trần quốc Toại 陳 國 遂 1 quyển
Lạc-đạo tập 樂 道 集, Chiêu-minh-vương Trần quang Khải 陳 光 啓 1 »
Băng-hồ-ngọc-hác tập 冰 壺 玉 壑 集, Trần nguyên Đán 陳 元 旦 1 »
Giới-hiên thi-tập 介 軒 詩 集, Nguyễn trung Ngạn 阮 忠 彥 1 »
Giáp-thạch-tập 峽 石 集, Phạm sư Mạnh 范 師 孟 1 »
Cúc-đường di-thảo 菊 堂 遺 草 Trần nguyên Đào 陳 元 璹 2 »
Thảo-nhàn-hiệu-tần 討 閒 效 顰, Hồ tôn Vụ 胡 尊 務 1 »
Việt-nam thế-chí 越 南 世 志 1 bộ
Việt-sử cương-mục 越 史 綱 目 1 »
Đại-việt sử-ký 大 越 史 記, Lê văn Hưu 黎 文 休 30 quyển
Nhị-khê thi-tập 蕊 溪 詩 集, Nguyễn phi Khanh 阮 飛 卿 1 »
Phi-sa tập 披 砂 集, Hàn Thuyên 韓 詮 1 »
Việt-điện-u-linh tập 越 甸 幽 靈 集, Lý tế Xuyên 李 濟 川 1 »

Những sách ấy bây giờ không biết mất đâu cả, không thấy quyển nào nữa, thật là một cái thiệt hại cho người nước mình.

Còn những người đi học, ở các phủ, châu, huyện, trước thì ở phủ mỗi năm 2 người, ở châu 2 năm 3 người, ở huyện mỗi năm 1 người, sau cải lại ở phủ mỗi năm 1 người, ở châu 3 năm 2 người, ở huyện 2 năm 1 người, được làm học trò tuế-cống cho vào học Quốc-tử-giám, rồi bổ đi làm quan.

5. VIỆC TRẠM-DỊCH. Từ thành Đông-quan (tức là Hà-nội) cho đến huyện Gia-lâm, phủ Từ-sơn, thì đặt trạm để chạy giấy bằng ngựa; từ huyện Chí-linh, huyện Đông-triều cho đến phủ Vạn-ninh là nơi giáp đất Khâm-châu nước Tàu thì đặt trạm chạy giấy bằng thuyền.

6. VIỆC BINH-LÍNH. Việc bắt lính thì cứ theo sổ bộ mà bắt. Ở những nơi gọi là vệ-sở thì mỗi một bộ phải ba suất đinh đi lính, nhưng từ Thanh-hóa về nam người ở ít, thì mỗi hộ chỉ phải hai suất đinh đi lính mà thôi. Những chỗ nào mà không có vệ-sở thì lập đồn ở chỗ hiểm-yếu rồi lấy dân binh ra giữ.

7. PHÉP HỘ-THIẾP VÀ HOÀNG-SÁCH. Việc điền hộ ở An-nam bấy giờ phải theo như lệ bên Tàu. Những dân đinh trong nước, thì ai cũng phải có một cái giấy biên tên tuổi và hương-quán để lúc nào có khám hỏi thì phải đưa ra. Cái giấy ấy biên theo như ở trong quyển sổ của quan giữ. Hễ giấy của ai mà không hợp như ở trong sổ thì người ấy phải bắt đi lính.

Việc cai-trị ở trong nước, thì chia ra làm 里 và giáp 甲. Ở chỗ thành-phố thì gọi là phường 妨; ở chung-quanh thành-phố thì gọi là tương 廂; ở nhà quê thì gọi là . lại chia ra giáp.

Cứ 110 hộ làm một và 10 hộ làm một giáp. thì có lý-trưởng, giáp thì có giáp-thủ.

Mỗi một năm có người làm lý-trưởng coi việc trong .

Mỗi một , một phường hay là một tương có một quyển sách để biên tất cả số đinh số điền vào đấy. Còn những người tàn-tật cô-quả thì biên riêng ra ở sau, gọi là kỷ-linh 畸 零. Ở đầu quyển sách lại có cái địa-đồ.

Khi nào quyển sổ ấy xong rồi, thì biên ra làm 4 bản, một bản có bìa vàng, cho nên gọi là hoàng-sách 黄 册 để gửi về bộ Hộ, còn 3 bản bìa xanh, thì để ở bố-chính-ti, ở phủ và huyện, mỗi nơi một bản.

Cứ mười năm lại tùy số dinh-điền hơn lên hay kém đi thế nào, phải làm lại cái mẫu sổ khác, gửi đi cho các , phườngtương để cứ theo mẫu ấy mà làm.

Bấy giờ lý-trưởnggiáp-thủ phải đập-đánh cực khổ lắm.

8. VIỆC THUẾ-MÁ. Phép nhà Minh đánh thuế cứ mỗi mẫu ruộng phải nộp năm thăng thóc, mỗi một mẫu bãi để trồng dâu phải nộp một lạng tơ, và mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa.

Lại đặt ra thuế muối. Dân mà nấu muối mỗi một tháng được bao nhiêu phải đưa vào để ở tòa Đề-cử, đợi khi nào tòa Bố-chính khám rồi mới được bán. Ai mà nấu lậu hay là bán lậu thì cũng phải phạt như nhau.

Ở châu, huyện nào cũng có một tòa Thuế-khóa để thu thuế.

9. VIỆC SƯU-DỊCH. Phàm những chỗ nào có mỏ vàng mỏ bạc thì đặt quan ra để đốc dân phu đi khai mỏ. Những chỗ rừng núi, thì bắt dân đi tìm ngà voi, sừng tê; ở chỗ gần bể, thì bắt dân phải đi mò ngọc trai. Còn những thổ-sản như: hồ-tiêu, hương-liệu cũng bắt cống nộp. Đến những hươu, voi, rùa, chim, vượn, rắn, cái gì cũng vơ-vét đem về Tàu.

Từ khi bọn Lý Bân 李 彬, Mã Kỳ 馬 騏 sang thay Trương Phụ, dân ta bị bọn ấy sách-nhiễu thật là khổ-sở.

10. QUAN-LẠI. Trừ những quan-lại ở bên Tàu sang cai-trị ra không kể, những người An-nam như những tên Nguyễn Huân 阮 勛, Lương nhữ Hốt 梁 汝 笏, Đỗ duy Trung 杜 維 忠 theo hàng nhà Minh, khéo đường xu-nịnh, được làm quan to, lại càng ỷ thế của giặc, làm những điều tàn-bạo hung-ác hơn người Tàu. Vả, trong những lúc biến-loạn như thế, thì những đồ tham-tàn gian-ác, không có nghĩa-khí, không biết liêm-sỉ, lại càng đắc chí lắm, cho nên dân-tình cực-khổ, lòng người sầu-oán. Cũng vì lẽ ấy, có nhiều kẻ tức giận nổi lên đánh phá, làm cho trong nước không lúc nào được yên-ổn.

   




Chú thích

  1. Nhà Minh bấy giờ không những là mở-mang Nho-học mà thôi, lại lập ra Tăng-cương-ti và Đạo-kỳ-ti để coi những việc thuộc về đạo Phật và đạo Lão.