Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần IV/Chương IV

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG IV

SỰ CHIẾN-TRANH

  1. Họ Trịnh đánh họ Mạc ở Cao-bằng
  2. Nhà Thanh dấy nghiệp
  3. Tình-thế họ Nguyễn ở miền Nam
  4. Đánh nhau lần thứ nhất
  5. Đánh nhau lần thứ hai
  6. Đánh nhau lần thứ ba
  7. Đánh nhau lần thứ tư
  8. Đánh nhau lần thứ năm
  9. Đánh nhau lần thứ sáu
  10. Đánh nhau lần thứ bảy

1. HỌ TRỊNH ĐÁNH HỌ MẠC Ở CAO-BẰNG. Năm kỷ-hợi (1599), vua Thế-tông mất, Trịnh Tùng cùng với các quan triều-thần lập hoàng-tử là Duy Tân 維 新 lên làm vua, tức là vua Kính-tông 敬 宗. Qua năm sau (1600) bọn Phan Ngạn, Ngô đình Hàm và Bùi văn Khuê nổi loạn ở cửa Đại-an. Trịnh Tùng ở Thăng-long sợ bốn mặt thụ-địch, bèn rước vua vào Thanh-hóa.

Đảng họ Mạc thấy thành Thăng-long bỏ không, bèn rước bà thứ-mẫu của Mậu Hợp là Bùi-thị 裴 氏 về tôn lên làm quốc-mẫu, rồi cho người lên đón Mạc kính Cung ở đất Cao-bằng.

Phan Ngạn và Bùi văn Khuê lại nghi-ngờ nhau rồi giết lẫn nhau, còn Ngô đình Hàm thì về giúp nhà Mạc.

Trịnh Tùng đem Kính-tông vào Thanh-hóa rồi thu-xếp ra lấy lại Thăng-long, nhưng còn sợ mặt Thuận-hóa có biến chăng, bèn sai quan vào ủy-dụ Nguyễn Hoàng; đoạn rồi đem thủy-bộ đại quân ra Bắc, đánh bắt được Bùi-thị giết đi, còn Mạc kính Cung 莫 敬 恭 bỏ chạy sang Kim-thành ở Hải-dương, sau thấy đảng của mình thua cả, lại bỏ Kim-thành chạy lên Cao-bằng.

Trịnh Tùng lấy lại Thăng-long rồi sai quan vào rước vua ra, và sai các tướng đi tiễu-trừ đảng họ Mạc ở mặt Thái-nguyên, Lạng-sơn và Yên-quang.

Trịnh Tùng càng ngày càng kiêu-hãnh quá, vua cũng không chịu được, lại nhân họ Trịnh có con là Trịnh Xuân 鄭 椿 muốn ganh quyền với người con trưởng là Trịnh Tráng 鄭 梉, vua Kính-tông mới mưu với Trịnh Xuân để giết Trịnh Tùng, nhưng chẳng may sự không thành. Trịnh Tùng bức vua phải thắt cổ chết, và bắt Trịnh Xuân giam mấy tháng rồi tha.

Trịnh Tùng giết vua Kính-tông rồi, lập Hoàng-tử là Duy Kỳ lên làm vua, tức là vua Thần-tông.

Năm quí-hợi (1623) Trịnh Tùng đau, hội các quan lại giao binh-quyền cho con là Trịnh Tráng 鄭 梉, và cho Trịnh Xuân 鄭 椿 làm phó.

Trịnh Xuân không bằng lòng, đem binh làm loạn, đốt phá kinh-thành, Trịnh Tùng thấy biến, chạy về xã Hoàng-mai, vào nhà Trịnh Đỗ 鄭 杜, rồi cho gọi Trịnh Xuân đến bắt giết đi. Được mấy hôm Trịnh Tùng mất ở chùa Thanh-xuân, thuộc huyện Thanh-trì.

Trịnh Tráng lên nối nghiệp làm chúa. Nhưng vì đảng Trịnh Xuân còn làm loạn, cho nên mới đưa vua về Thanh-hóa. Vua phong cho Trịnh Tráng làm Thái-úy Thanh-quốc-công 太 尉 清 國 公, tiết chế thủy-bộ chư quân.

Bấy giờ có Mạc kính Khoan 莫 敬 寬 là cháu Mạc kính Cung xưng làm Khánh-vương 慶 王 ở đất Thái-nguyên. Trước đã bị quân họ Trịnh đánh phá mấy trận, phải lên ẩn-núp ở đất Cao-bằng, nay thấy người nhà họ Trịnh làm loạn, lại đem quân vào đóng ở làng Thổ-khối 土 塊, huyện Gia-lâm. Nhưng chẳng bao lâu Trịnh Tráng ở Thanh-hóa ra đánh. Kính Khoan lại phải chạy về Cao-bằng.

Trịnh Tráng dẹp yên đất Đông-đô, lại vào rước vua ra, và tự xưng làm Nguyên-súy, Thống-quốc-chính Thanh-đô-vương 元 帥, 統 國 政, 清 都 王, rồi sai con là Trịnh Kiều 鄭 橋 đem quân lên đánh Cao-bằng (ất-sửu 1625) bắt được Mạc kính Cung đem về giết đi. Mạc kính Khoan thì chạy sang Tàu, rồi cho người về dâng biểu xin hàng.

Triều-đình phong cho Kính Khoan làm Thái-úy Thông-quốc-công 太 尉 通 國 公 và cho giữ đất Cao-bằng theo lệ cống tiến.

2. NHÀ THANH DẤY NGHIỆP. Khi Trịnh Tráng ở An-nam ta mới lên nối nghiệp làm chúa và đang phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao-bằng, thì ở bên Tàu nhà Minh mất nước.

Nguyên ở xứ đông-bắc nước Tàu có một xứ gọi là Mãn-châu 滿 洲, có giống người Nữ-chân 女 真 ở. Về đời nhà Tống người Nữ-chân đã lập nên một nước lớn gọi là Kim 金, xưng đế được 120 năm, rồi bị nhà Nguyên lấy mất. Nhà Nguyên đặt Vạn-hộ-phủ để cai-trị đất Mãn-châu.

Sau nhà Minh dứt được nhà Nguyên, tuy ở Mãn-châu nhà Minh có đặt vệ-địa, nhưng mà người xứ ấy vẫn tự cai-trị lấy.

Đất Mãn-châu bấy giờ chia làm bốn bộ:

  1. Mãn-châu bộ 滿 洲 部 (thuộc về Kiến-châu vệ-địa)
  2. Trường-bạch-bộ 長 白 部 (thuộc về Kiến-châu vệ-địa)
  3. Đông-hải-bộ 東 海 部 (thuộc về Dạ-nhân vệ-địa)
  4. Hỗ-luân-bộ 扈 倫 部 (thuộc về Hải-tây vệ-địa)

Về cuối đời nhà Minh, ở Trường-bạch-bộ có một người tên là Nỗ Nhĩ Cấp Xích 努 爾 哈 赤, tức là vua Thái-tổ nhà Thanh, đánh lấy tất cả đất bốn bộ, đóng kinh-đô ở đất Thẩm-dương 瀋 陽, là Thịnh-kinh bây giờ.

Nỗ Nhĩ Cấp Xích mất, con lên nối nghiệp tức là Thanh Thái-tông. Sau nhân được cái Truyền-quốc-tỉ của nước Tàu, Thái-tông mới cải quốc-hiệu là Đại-thanh 大 清.

Con Thái-tông tên là Phúc Lâm 福 臨 lên làm vua, tức là Thanh Thế-tổ, đánh lấy được cả đất Liêu-tây của nhà Minh.

Khi tướng nhà Minh là Ngô tam Quế 吳 三 桂 đang chống với quân nhà Thanh ở Sơn-hải-quan thì Lý tự Thành 李 自 成 nổi lên vây đánh Yên-kinh. Vua Trang-liệt nhà Minh gọi Ngô tam Quế về cứu, nhưng về đến nửa đường, Tam Quế được tin Yên-kinh đã thất thủ, Trang-liệt-đế và Hoàng-hậu đã bị giết, Tam Quế lại trở về Sơn-hải-quan 山 海 關.

Lý tự Thành cho người gọi Tam Quế về hàng, Tam Quế không về. Tự Thành đem quân đến đánh Sơn-hải-quan. Tam Quế xin hàng nhà Thanh để lấy binh về đánh Tự Thành.

Lý tự Thành đánh thua, phải bỏ Yên-kinh mà chạy, quân nhà Thanh vào giữ Yên-kinh rồi dời kinh-sư về đó.

Các quan cựu thần nhà Minh lập Phúc-vương 福 王 lên làm vua ở Nam-kinh, nhưng sau vì các tướng không hòa với nhau, Phúc-vương phải ra hàng.

Phúc-vương hàng Thanh rồi, Đường-vương 唐 王 xưng đế ở Phúc-châu, chẳng bao lâu cũng bị bắt, phải nhịn ăn mà chết.

Dòng-dõi nhà Minh là Quế-vương 桂 王 xưng đế ở đất Triệu-khánh (thuộc tỉnh Quảng-tây) được mấy năm, bị quân nhà Thanh đến đánh, phải chạy sang Diến-điện. Vua Diến-điện bắt Quế-vương nộp cho Ngô tam Quế. Tam Quế đem giết đi. Từ đấy nhà Thanh nhất-thống nước Tàu.

Khi Quế-vương xưng đế ở đất Quảng-tây, có ý muốn nhờ An-nam cứu viện, cho nên mới phong cho vua Thần-tông nhà Lê làm An-nam quốc-vương và phong cho Trịnh Tráng làm phó vương.

Khi ấy ở phía bắc nước Tàu đang loạn, họ Mạc thì đã về hàng, Trịnh Tráng mới nhân dịp quyết ý đi đánh họ Nguyễn ở phía nam.

3. TÌNH-THẾ HỌ NGUYỄN Ở MIỀN NAM. Từ khi Nguyễn Hoàng 阮 潢 về Thuận-hóa rồi, bề ngoài tuy vẫn chưa ra mặt chống với họ Trịnh, nhưng bề trong thì hết sức lo sự phòng-bị. Xem như năm quí-sửu (1613), khi Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn-phúc Nguyên 阮 福 源 vào dặn rằng: « Đất Thuận, Quảng này bên bắc thì có núi Hoành-sơn 橫 山, sông Linh-giang, bên nam thì có núi Hải-vân và núi Bi-sơn thật là một nơi trời để cho người anh-hùng dụng võ. Vậy ta phải thương-yêu nhân-dân, luyện-tập quân-sĩ để mà gây-dựng cơ-nghiệp về muôn đời ». Xem lời ấy thì biết họ Nguyễn đã có ý muốn độc-lập để chống với họ Trịnh.

Khi ở ngoài Bắc, Trịnh Tùng 鄭 松 mất, chúa Sãi là ông Nguyễn-phúc Nguyên bảo các quan rằng: « Ta muốn nhân dịp này mà ra đánh họ Trịnh, nhưng hiềm vì công-việc chưa xong, vậy thì hãy sai người ra phúng-điếu, trước là cho phải cái nghĩa hôn-nhân với nhau, sau là nhân thể xem tình-ý ngoài Bắc ra thế nào ».

Bấy giờ ở miền Nam lại có những người tôi giỏi giúp rập như các ông Nguyễn hữu Dật 阮 有 鎰, ông Đào duy Từ 陶 維 慈 và ông Nguyễn hữu Tiến 阮 有 進 đều là người có tài trí cả.

Nguyễn hữu Dật 阮 有 鎰 là người làng Gia-miêu, huyện Tống-sơn, tỉnh Thanh-hóa, học rộng, tài cao, và lại có tài hùng-biện, đánh giặc giỏi, thật là một bậc văn võ kiêm toàn.

Đào duy Từ 陶 維 慈 là người làng Hoa-trai, huyện Ngọc-sơn, phủ Tĩnh-gia, tỉnh Thanh-hóa. Vì ông là con nhà xướng hát cho nên không được đi thi, ông phẫn trí mới đi vào miền Nam tìm đường lập công, nhưng chưa gặp được người tiến-cử cho, bèn vào ở chăn trâu cho một nhà phú-gia ở làng Tùng-châu 叢 洲 phủ Hoài-nhân (nay là Bình-định). Ông làm bài « Ngọa-long-cương 卧 龍 崗 » để tự ví mình với ông Gia-cát Lượng. Sau có quan Khám-lý là Trần đức Hòa 陳 德 和 biết Duy Từ là người có tài, đem về nuôi, và gả con-gái cho, rồi đưa dâng chúa Sãi. Chúa dùng làm Nội-tán 內 贊, phong làm Lộc-khê-hầu 禄 溪 侯[1].

Nguyễn hữu Tiến 阮 有 進 cũng là người Thanh-hóa, làng Vân-trai, huyện Ngọc-sơn, võ nghệ tinh-thông, dùng binh rất có kỷ-luật, thật là một người làm tướng có tài vậy.

Những người ấy giúp chúa Nguyễn, bày mưu định kế, luyện-tập quân lính, xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh[2].

Khi những đồn lũy đã kiên-cố, binh lương đã đủ rồi, chúa Sãi mới ra mặt không thần-phục họ Trịnh nữa, và sai tướng ra chiếm giữ lấy đất Nam-bố-chinh 南 布 政 là đất ở phía nam sông Linh-giang 𤅷 江 để làm chỗ chống giữ. Từ đó họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau tai-hại trong khoảng 45 năm ở đất Quảng-bình, Hà-tĩnh bây giờ.

4. ĐÁNH NHAU LẦN THỨ NHẤT. Năm đinh-mão (1627) nhân khi nhà Minh bên Tàu còn đang chống nhau với nhà Thanh, và họ Mạc ở Cao-bằng thì về hàng, Trịnh Tráng 鄭 梉 mới sai quan vào Thuận-hóa giả tiếng nhà vua sai vào đòi tiền thuế từ ba năm về trước.

Tờ sắc làm bằng chữ nôm như sau này:

« Hoàng-thượng sắc dụ cho Thái-bảo Thụy-quận-công là Nguyễn-phúc Nguyên được biết rằng:

« Mệnh lệnh triều-đình,

« Đạo làm tôi phải nên tuân-thủ;

« Thuế-má phủ huyện,

« Tướng ngoài cõi không được tự chuyên.

« Trước đây trẫm có sai Công-bộ Thượng-thư là Nguyễn duy Thì, Bá-khê-hầu là Phan văn Trị vào Thuận-hóa, đạo đạt tình-ý, chỉ-bảo đường họa-phúc, để cho tỉnh biết mà phục-tùng quyền-chính triều-đình. Không ngờ nhà ngươi mang lòng dúng-dắng, tối đường tới lui, nói thoái-thác cho lôi-thôi ngày tháng, để đến nỗi thuế-má thiếu-thốn, không đủ việc chi-thu, đạo làm tôi như thế đã phải chưa? Nhà ngươi nay nên đổi lỗi trước, giữ-gìn phép-tắc. Phàm ngạch thuế trong hai xứ Thuận, Quảng, từ năm quí-hợi về trước, có phải đã mất mùa thì xá cả cho; còn từ năm giáp-tí đến nay phải tính cho đủ số theo lệ trước, tải thuyền đem ra nộp cho đủ; và phải chỉnh-tề binh-mã, hoặc thân đến kinh-đô triều-hạ, hoặc phải sai con đi thay, để coi xem nghi-vệ trong nước, và để tỏ giãi tấm lòng làm tôi. Nếu thế thì Triều-đình sẽ phong thêm cho chức-tước vinh-hiển, để rạng tỏ đến tổ-tông. Nhược bằng thoái-thác không đến, thì tức là phạm tội với triều-đình.

« Khâm tai dụ sắc! »

Chúa Sãi tiếp sứ nhưng không chịu nộp thuế. Trịnh Tráng lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ chúa Sãi cho con ra chầu, và lấy 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa đi cống nhà Minh. Chúa Sãi không chịu.

Trịnh Tráng thấy vậy, bèn quyết ý đánh họ Nguyễn, sai Nguyễn Khải 阮 啟 và Nguyễn danh Thế 阮 名 世 đem 5.000 quân đi làm tiên-phong vào đóng ở xã Hà-trung 河 中 (tục gọi là Cầu-doanh), rồi đem đại binh, rước vua Lê đi đánh mặt Nam.

Chúa Sãi sai cháu là Nguyễn-phúc Vệ 阮 福 衞 làm tiết-chế cùng với Nguyễn hữu Dật đem binh-mã ra giữ các nơi hiểm yếu. Quân họ Trịnh đến đánh, chết hại rất nhiều. Bọn Nguyễn hữu Dật lại đặt ra một kế khiến cho quân Trịnh phải rút về, sai người đi nói phao ra rằng ở ngoài Bắc có Trịnh Gia 鄭 嘉 và Trịnh Nhạc 鄭 岳 sắp làm loạn.

Trịnh Tráng nghe tin ấy trong bụng sinh nghi, không biết thực hư thế nào, bèn rước vua và rút quân về Bắc.

5. ĐÁNH NHAU LẦN THỨ HAI. Năm canh-ngọ (1630) chúa Sãi nghe lời Đào duy Từ, sai người đem sắc dụ ra trả vua Lê, rồi sai tướng đánh lấy phía nam-ngạn sông Linh-giang để chống với quân họ Trịnh. Đến năm quí-dậu (1633) nhân khi chúa Sãi có người con thứ ba tên là Ánh 渶, trấn thủ ở đất Quảng-nam, có ý muốn tranh quyền, bèn sai người đưa thư ra Thăng-long xin chúa Trịnh đem quân vào đánh bắn súng làm hiệu, thì sẽ làm nội ứng. Ánh lại xin chúa Sãi cho ra trấn-thủ đất Quảng-bình để cho tiện làm mưu gian, nhưng chúa Sãi có lòng ngờ, không cho.

Khi Trịnh Tráng được cái thư của ngươi Ánh gửi ra, liền đem đại binh vào đóng ở cửa Nhật-lệ 日 麗 (cửa Đồng-hới).

Chúa Nguyễn sai Nguyễn vân Thắng 阮 雲 勝 và Nguyễn hữu Dật 阮 有 鎰 đem quân ra chống-giữ.

Quân Họ Trịnh đến đợi hơn 10 ngày, không thấy tin-tức gì của ngươi Ánh, bèn lui quân ra để chờ.

Quân-lính đợi lâu thành ra lười-biếng, quân họ Nguyễn mới xuất kỳ bất ý, đổ ra đánh đuổi.

Trịnh Tráng thấy sự không thành, rút quân về.

6. ĐÁNH NHAU LẦN THỨ BA. Năm ất-hợi (1635) chúa Sãi là Nguyễn-phúc Nguyên mất, con là Nguyễn-phúc Lan 阮 福 瀾 lên nối nghiệp làm chúa, gọi là chúa Thượng.

Lúc ấy ngươi Ánh ở Quảng-nam nghe tin chúa Sãi mất rồi, anh lên nối nghiệp, bèn phát binh làm phản. — Bấy giờ có Nguyễn-phúc Khê giúp chúa Thượng, sai quân vào đánh bắt được ngươi Ánh, lấy nghĩa « Anh em là tình riêng, phép nước là nghĩa lớn » đem giết đi.

Trịnh Tráng thấy anh em họ Nguyễn tranh nhau, sai tướng vào đánh đất Nam-bố-chính, giết được tướng họ Nguyễn là Bùi công Thắng 裴 公 勝 rồi tiến lên đóng ở cửa Nhật-lệ.

Đến năm quí-vị (1643) Trịnh Tráng đem đại binh và rước vua Lê vào đất Bắc-bố-chính. Nhưng bấy giờ đang tiết tháng tư, khí trời nóng lắm, quân-sĩ chết-hại rất nhiều, Trịnh Tráng phải rút về Bắc.

7. ĐÁNH NHAU LẦN THỨ TƯ. Năm mậu-tí (1648) Trịnh Tráng sai đô đốc Tiến-quận-công 進 郡 公 là Lê văn Hiểu 黎 文 曉[3] đem quân thủy-bộ vào đánh miền Nam; bộ binh tiến lên đóng ở đất Nam-bố-chính; còn thủy-quân thì vào đánh cửa Nhật-lệ.

Bấy giờ có hai cha con Trương phúc Phấn 張 福 奮 cố sức giữ lũy Trường-dục 長 育, quân họ Trịnh đánh mãi không tiến lên được.

Chúa Nguyễn sai con là Nguyễn-phúc Tần 阮 福 瀕 đem binh ra chống-giữ với họ Trịnh, khi ra đến Quảng-bình, Nguyễn-phúc Tần hội các tướng lại bàn rằng: « Quân kia tuy nhiều, nhưng mà người đánh giỏi thì ít. Nếu đến đêm ta cho voi xông vào rồi đem đại quân đến đánh là chắc phá được. » Đoạn rồi, một mặt cho thủy-quân đi phục sẵn ở sông Cẩm-la để chặn đường quân Trịnh chạy về; một mặt sai Nguyễn hữu Tiến đem 100 con voi đến canh năm xông vào trại quân Trịnh, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quả nhiên quân Trịnh thua to chạy về Bắc, lại gặp quân thủy của họ Nguyễn đón đường đuổi đánh mãi đến sông Lam-giang mới thôi.

Trận ấy quân họ Nguyễn bắt được mấy người tướng và 3.000 quân của họ Trịnh.

Trịnh Tráng thấy quân mình thua, sai Lê văn Hiểu 黎 文 曉 cùng với Trần ngọc Hậu 陳 玉 厚 lĩnh một vạn quân đóng ở Hà-trung, Lê hữu Đức 黎 有 德 cùng với Vũ Lương 武 良 đong ở Hoành-sơn, Phạm tất Toàn 范 必 全 đóng ở đất Bắc-bố-chính để phòng giữ quân họ Nguyễn.

Lúc bấy giờ ở trong Nam thì chúa Thượng mất, truyền nghiệp chúa lại cho con là Nguyễn-phúc Tần, gọi là chúa Hiền. Ở ngoài Bắc thì vua Chân-tông mất, không có con, Trịnh Tráng lại rước Thần-tông, Thái-thượng-hoàng, về làm vua lần nữa.

Họ Trịnh vào đánh họ Nguyễn đã mấy phen, đánh phen nào thì hao binh tổn tướng phen ấy, thế mà vẫn không chịu thôi việc chiến-tranh. Đến năm ất-vị (1655) quân nhà Trịnh lại vào đánh đất Nam-bố-chính. Bấy giờ chúa Hiền mới quyết ý đem quân ra đánh họ Trịnh.

8. ĐÁNH NHAU LẦN THỨ NĂM. Tháng tư năm ất-vị (1655) chúa Hiền sai Thuận-nghĩa-hầu là Nguyễn hữu Tiến 阮 有 進, Chiêu-vũ-hầu là Nguyễn hữu Dật 阮 有 鎰 đem quân qua sông Linh-giang ra đánh đất Bắc-bố-chính, tướng họ Trịnh là Phạm tất Toàn về hàng.

Quân nhà Nguyễn tiến lên đến Hoành-sơn, gặp quân của Lê hữu Đức, đánh đuổi một trận, rồi thừa thắng đánh đến đồn Hà-trung. Lê văn Hiểu chống không nổi, phải cùng với Lê hữu Đức rút quân về giữ An-trường 安 場 (tức là thành Nghệ-an bây giờ).

Nguyễn hữu Tiến đem binh đến đóng ở huyện Thạch-hà, Lê văn Hiểu và Lê hữu Đức lại sang đóng ở xã Đại-nại 大 奈.

Trịnh Tráng thấy bọn Lê văn Hiểu binh bại ở Hà-trung, bèn cho sứ vào triệu về kinh, và sai Trịnh Trượng 鄭 杖 vào làm Thống-lĩnh, kinh-lược đất Nghệ-an.

Lê văn Hiểu bị đạn ở chân, về đến nửa đường thì chết; còn bọn Lê hữu Đức, Vữ Lương đều phải giáng chức cả.

Trịnh Trượng tiến binh lên đến huyện Kỳ-hoa, cho thủy-binh vào đóng ở cửa Kỳ-la.

Nguyễn hữu Tiến thấy quân họ Trịnh đã tiến, bèn rút quân về sông Linh-giang để nhử quân nghịch. Nhưng mà Trịnh Trượng thấy tự-nhiên quân Nguyễn bỏ về như vậy, sợ có mưu-kế gì, không dám đuổi, bèn đóng quân ở lại Lạc-xuyên 樂 川, rồi cho 500 người vào đóng ở đồn Hà-trung.

Nguyễn hữu Tiến thấy quân họ Trịnh không đuổi, bèn đem quân đến đánh quân Trịnh ở Lạc-xuyên; còn Nguyễn hữu Dật thì đem thủy-binh ra đánh cửa Kỳ-la, đuổi chiến-thuyền của họ Trịnh về cửa Châu-nhai.

Nguyễn hữu Tiến và Nguyễn hữu Dật thừa thắng tiến binh lên đánh quân họ Trịnh, rồi chiếm-giữ lấy đồn Lạc-xuyên. Binh-tướng họ Trịnh phải chạy về An-tràng.

Bấy giờ những huyện ở phía nam sông Lam-giang (tức là sông Cả bây giờ) là huyện Kỳ-hoa, huyện Thạch-hà, huyện Thiên-lộc, huyện Nghi-xuân, huyện La-sơn, huyện Hương-sơn, huyện Thanh-chương, cả thảy là bảy huyện đều thuộc về họ Nguyễn cả.

Tin quân Trịnh thua ở Lạc-xuyên ra đến Thăng-Long, Trịnh Tráng giáng Trịnh Trượng xuống làm đô-đốc, rồi sai con là Trịnh Tạc 鄭 柞 vào Nghệ-an làm Thống-lĩnh để chống-giữ với quân họ Nguyễn.

Bọn Nguyễn hữu Tiến thấy quân Trịnh Tạc lại tiến, liền lui quân về đóng ở Hà-trung để giữ trận thế. Nhưng bấy giờ ở ngoài Bắc lắm việc, Trịnh Tráng phải gọi Trịnh Tạc về, để tướng là Đào quang Nhiêu 陶 光 饒 ở lại trấn thủ đất Nghệ-an, đóng ở An-tràng, sai Thân văn Quang 申 文 觥, Mẫn văn Liên 閔 文 蓮 đóng ở làng Tiếp-vũ 接 武 (thuộc huyện Thiên-lộc) thủy-quân đóng ở sông Khu-độc 軀 犢 (thuộc huyện Nghi-xuân).

Qua năm bính-thân (1656) quân họ Nguyễn đến đánh đồn Tiếp-vũ, bọn Thân văn Quang bỏ chạy, Nguyễn hữu Tiến đem quân đến đóng ở sông Tam-chế. Còn Nguyễn hữu Dật tiến binh đến núi Hồng-lĩnh 鴻 嶺, gặp quân họ Trịnh đánh đuổi đến đất Mẫn-tường, rồi lại gặp thủy-binh của Vũ văn Thiêm 武 文 添, đánh phá một trận, Văn Thiêm thua chạy. Quân họ Nguyễn thừa thắng tiến lên đến làng Minh-lương và làng Bình-lạng gặp quân của Đào quang Nhiêu, hai bên đánh nhau một trận rất dữ. Đào quang Nhiêu thua chạy về An-tràng, dâng biểu tạ tội và xin viện binh.

Trịnh Tráng sai người con út là Ninh-quận-công Trịnh Toàn 寧 郡 公 鄭 旋 (tục hay gọi là ông Ninh) vào làm thống-lĩnh trấn-thủ đất Nghệ-an.

Trịnh Toàn vào đến Nghệ-an, đốc chư quân tiến lên đến Thạch-hà 石 河, sai Đào quang Nhiêu 陶 光 饒 và Dương Hồ đem binh đến đóng ở làng Hương-bộc và ở làng Đại nại, sai Lê sĩ Hậu 黎 仕 厚, Bùi sĩ Lương 裴 士 良 đem thủy-quân đến đóng ở Nam-giới (?), và sai Vũ văn Thiêm 武 文 添 đem thủy-quân đến đóng ở Châu-nhai.

Nguyễn hữu Tiến thấy quân họ Trịnh cử động như vậy, bèn sai bọn Dương Trí 楊 智, Tống phúc Khang 宋 福 康 cùng với Nguyễn hữu Dật 阮 有 鎰 đem thủy-bộ quân đến đánh quân Trịnh ở Nam-giới, lấy được hơn 30 chiếc thuyền, rồi tràn xuống sông Lam-giang đánh Vũ văn Thiêm ở Châu nhai. Vũ văn Thiêm phải bỏ thuyền mà chạy.

Trịnh Toàn thấy các đạo thủy-binh của mình đã thua, bèn rút về đóng ở bến Hoạt 活, bỗng nghe tin toán quân của Đào quang Nhiêu bị vây ở Hương-bộc 香 瀑, lập tức đem quân đến cứu, hai bên đánh nhau ở làng Đại-nại 大 奈, quân họ Nguyễn chạy về Hà-trung. Trịnh Toàn và Đào quang Nhiêu đem quân đuổi đến Tam-lộng, bị quân của Nguyễn hữu Tiến và Nguyễn hữu Dật đón đường đánh phá. Trịnh Toàn lại thua, phải chạy về An-tràng.

Trịnh Toàn từ khi vào trấn-thủ đất Nghệ-an, hậu-đãi tướng-sĩ, yêu mến quân dân, lòng người đều phục; nhưng chẳng được bao lâu, Trịnh Tráng mất, Trịnh Tạc 鄭 柞 lên thay, thấy em có nhiều người mến-phục, lấy làm nghi-kỵ, bèn cho con là Trịnh Căn 鄭 根 vào cùng trấn đất Nghệ-an, có ý giữ để cho khỏi biến-loạn. Đoạn rồi cho người vào đòi Trịnh Toàn về kinh, trách sao không về chịu tang, bắt bỏ ngục giam chết.

Binh-quyền ở Nghệ-an giao lại cho Trịnh Căn. Đến tháng sáu năm đinh-sửu (1657) Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo, sai Lê Hiến 黎 憲 làm tướng trung-quân, sai Hoàng nghĩa Giao 黄 義 膠 làm tướng tả-quân, sai Trịnh thế Công 鄭 世 功 làm tướng hữu-quân, sang sông Lam-giang rồi tiến lên đánh tướng nhà Nguyễn là Tống hữu Đại 宋 有 大 ở làng Nam-hoa (thuộc huyện Thanh-chương).

Nhưng vì có người báo trước, bọn Nguyễn hữu Tiến đã phòng-bị cả, đến khi quân Trịnh đến, thì mắc kế phải thua, may nhờ có quân Trịnh Căn tiếp ứng, cho nên mới rút về được.

Từ đó quân hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam-giang, thỉnh-thoảng đánh nhau một trận, như tháng chạp năm mậu-tuất (1658), đánh ở làng Tuần-lễ 循 禮 (huyện Hương-sơn) quân họ Nguyễn phải lùi; đến tháng tám năm canh-tí (1660) đánh ở Nghi-xuân, quân họ Trịnh thua bỏ thuyền mà chạy; qua tháng 9 năm ấy đang khi quân họ Nguyễn còn đóng ở làng Hoa-viên (tức là làng Xuân-viên bây giờ), Trịnh Căn định sang lấy núi Lận-sơn 吝 山 để giữ trận thế, bèn sai Hoàng nghĩa Giao 黄 義 膠 và Phan kiêm Toàn 潘 兼 全 đem binh sang sông Lam-giang ở làng Âm-công, và sai Lê Hiến 黎 憲[4] đi xuống phía Hội-thống rồi sang sông, chờ đến nửa đêm thì hai đạo cùng tiến cả.

Đạo quân của Đào nghĩa Giao đi đến Lận-sơn bị quân của Nguyễn hữu Dật đánh và vây ngặt lắm. Bấy giờ Trịnh Căn đứng thị chiến trên núi Quyết-dũng (ở gần Bến-thủy bây giờ), trông thấy quân mình bị vây nguy-cấp lắm, liền sai quân sang cứu, và truyền cho thủy-quân đến bờ sông mà bắn lên, quân họ Nguyễn phải lùi.

Còn đạo quân của Lê Hiến và Mẫn văn Liên sang đến làng Tả-ao gặp quân họ Nguyễn, hai bên đánh nhau, Mẫn văn Liên tử trận, nhưng quân họ Nguyễn phải bỏ Hoa-viên lui về đóng ở Nghi-xuân.

Lúc ấy đại quân của Nguyễn hữu Tiến đóng ở Nghi-xuân, còn Nguyễn hữu Dật thì đóng ở Khu-đốc. Chúa Hiền cũng đem binh đến tiếp ứng, đóng ở làng Phù-lộ (nay là làng Phù-an thuộc huyện Bình-chính, Quảng-bình). Nguyễn hữu Dật lẻn về ra mắt chúa Hiền, kể đầu đuôi mọi việc đánh lấy thế nào, chúa Hiền mừng lắm, cho hữu Dật một thanh bảo-kiếm bằng vàng và lại sai trở lại đánh giặc.

Nguyễn hữu Tiến biết việc ấy, trong bụng lấy làm không bằng lòng, và bấy giờ lại nhân có những sĩ-tốt mới hàng ở đất Nghệ-an, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội chư tướng lại để bàn xem nên đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn hữu Dật không chịu.

Khi các tướng họ Nguyễn đang bàn-bạc, thì có tin rằng Trịnh Căn sai bọn Lê Hiến đi men bờ bể đến làng Cương-gián, bọn Hoàng nghĩa Giao đến làng Lũng-trâu và làng Mãn-trưởng, rồi tiến lên đánh ở làng An-điền và ở làng Phù-lưu; quân họ Nguyễn thua. Được tin ấy Nguyễn hữu Tiến quyết ý đem quân về, nhưng bề ngoài giả tảng truyền lệnh cho các tướng rằng đến tối 28 thì các đạo đều phải tiến sang đánh An-tràng, Nguyễn hữu Dật đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến nửa đêm rút quân về Nam-bố-chính, không cho Nguyễn hữu Dật biết. Nguyễn hữu Dật sắm sửa đâu vào đấy, chờ mãi không có tin tức gì, đến khi cho người đi thám về nói mới biết quân mình đã rút về Nam rồi. Lúc ấy quân họ Trịnh đã sang sông đến đánh đồn Khu-độc. Hữu Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân Trịnh không dám tiến lên, rồi đem binh chạy về, đến Hoành-sơn mới gặp quân của Nguyễn hữu Tiến. Bấy giờ quân Trịnh Căn vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều.

Trịnh Căn lui về đóng ở Kỳ-hoa. Còn bên kia Nguyễn hữu Tiến đóng ở Nhật-lệ, Nguyễn hữu Dật đóng ở Đông cao, giữ các chỗ hiểm-yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng sông Lam-giang lại thuộc về đất Bắc.

Trịnh Căn thấy quân họ Nguyễn giữ-gìn mọi nơi chắc-chắn lắm, liệu thế đánh không được, bèn sai Đào quang Nhiêu ở lại trấn-thủ đất Nghệ-an và kiêm lĩnh cả đất Bắc-bố-chính để phòng giữ mọi nơi, rồi về Thăng-long.

9. ĐÁNH NHAU LẦN THỨ SÁU. Đến tháng 10 năm tân-sửu (1661) Trịnh Tạc cử đại binh và đem vua Lê vào đánh chúa Nguyễn: sai Trịnh Căn làm thống-lĩnh, Đào quang Nhiêu làm Tổng-suất, Lê Hiếu và Hoàng nghĩa Giao làm Đốc-suất, Lê sĩ Triệt và Trịnh Tế làm Đốc-thị, đem binh sang sông Linh-giang rồi đến đóng ở làng Phúc-tự.

Quan trấn-thủ Nam-bố-chính của họ Nguyễn là Nguyễn hữu Dật đóng ở làng Phúc-lộc chia quân ra đắp lũy, giữ vững mọi nơi, quân Trịnh đánh mãi mấy tháng không được.

Đến tháng 3 năm nhâm-dần (1662), quân mệt, lương hết, Trịnh Tạc phải thu quân và rước vua về Bắc. Nguyễn hữu Dật đem binh đuổi đánh đến sông Linh-giang mới thôi.

Năm ấy Thần-tông về rồi đến tháng 9 thì mất, Trịnh Tạc lập Thái-tử là Duy Vũ 維 禑 lên làm vua tức là vua Huyền-tông. Huyền-tông làm vua được 8 năm thì mất. Trịnh Tạc lại lập Hoàng-đệ là Duy Hội 維 禬 lên làm vua, tức là vua Gia-tông.

10. ĐÁNH NHAU LẦN THỨ BẢY. Từ năm tân-sửu (1661) quân họ Trịnh thua ở đất Bắc-bố-chính rồi, Trịnh Tạc về phải lo việc nước và phải đánh dẹp họ Mạc ở đất Cao-bằng, cho nên không dòm-ngó đến phía Nam; mãi đến năm nhâm-tí (1672) Trịnh Tạc lại đem mấy vạn quân và rước vua Gia-tông vào đất Bắc-bố-chính để đánh họ Nguyễn, sai Trịnh Căn làm thủy-quân Nguyên-súy, Lê Hiến làm bộ quân Thống-suất.

Chúa Hiền cũng sai em thứ tư là Hiệp làm Nguyên-súy đem binh ra cùng Nguyễn hữu Dật và Nguyễn mỹ Đức giữ các nơi hiểm-yếu để ngự địch, chúa Hiền đem đại binh đi tiếp ứng.

Quân họ Trịnh đến đánh lũy Trấn-ninh 鎭 寧 rất hăng, đã hai ba phen sắp phá được lũy, nhưng Nguyễn hữu Dật hết sức chống giữ, quân Trịnh đánh mãi không được, phải lùi về Bắc-bố-chính. Đến tháng chạp, trời mưa rét và lại nghe tin rằng Trịnh Căn đi đến Linh-giang phải bệnh nặng, Trịnh Tạc bèn sai Lê Hiến 黎 憲 ở lại trấn-thủ Nghệ-an, Lê sĩ Triệt 黎 仕 澈 làm Đô-đốc đóng ở Hà-trung để giữ các nơi yếu lộ, lấy sông Linh-giang 𤅷 江, tức là sông Gianh bây giờ mà phân giới-hạn Nam Bắc, rồi rút quân về Thăng-long.

Từ đó Nam Bắc thôi việc chiến-tranh, mãi đến khi Tây-sơn khởi binh, thì họ Trịnh mới nhân dịp vào đánh lấy đất Thuận-hóa.

Kể từ năm đinh-mão (1627) đời vua Thần-tông lần thứ nhất, đến năm nhâm-tí (1672) đời vua Gia-tông, vừa 45 năm, họ Trịnh, họ Nguyễn đánh nhau cả thảy 7 lần. Trong bấy nhiêu lần, họ Nguyễn chỉ ra đánh họ Trịnh có một lần, đã lấy được 7 huyện ở phía nam sông Lam-giang, nhưng vì các tướng họ Nguyễn không đồng lòng với nhau, cho nên lại phải bỏ về giữ đất cũ.

Còn như thế-lực binh-lương thì họ Trịnh mạnh hơn họ Nguyễn, nhưng người Bắc phải đi đánh xa-xôi, vận-tải khó-khăn, mà người Nam thì đánh ở đất nhà mình, có đồn-lũy chắc-chắn, tướng-sĩ hết lòng, cho nên thành ra hai bên đối địch chứ không làm gì được nhau, chỉ khổ cho những dân sự, phải sưu-dịch vất-vả, và bị tàn-phá thiệt hại rất nhiều.

  1. Đào duy Từ giúp chúa Sãi được 8 năm thì mất, thọ 63 tuổi.
  2. Đào duy Từ lập đồn Trường-dục 長 育 ở huyện Phong-lộc (Quảng-bình). Và xây cái lũy dài ở cửa Nhật-lệ 日 麗 (cửa Đồng-hới) tức là cái Trường-thành ở Quảng-bình bây giờ. Người ta thường gọi lũy ấy là lũy Thầy, nghĩa là lũy của Đào duy Từ đắp ra.
  3. Có nơi chép là Trịnh Đào 鄭 檮 hay là Hàn Tiến.
  4. Có sách chép là Lê thời Hiến 黎 時 憲.