Nho giáo/Quyển II/Thiên III

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

THIÊN III

TUÂN-TỬ

Phái Tăng-tử nước Lỗ truyền đến Mạnh-tử rồi không có người nối được đạo-thống nữa. Hậu-nho cho Khổng-giáo truyền đến đó là gián-đoạn, mãi đến đời nhà Tống mới có bọn Chu Liêm-khê, Trình Minh-đạo và Trình Y-xuyên tiếp tục được cái mối học cũ. Xét ra, từ Mạnh-tử về sau cái tinh-thần của Khổng-giáo có phần kém đi nhiều. Về cuối đời Chiến-quốc, các học-phái của Nho-giáo tuy hãy còn nhiều, nhưng phái nào cũng chỉ chuyên về mặt lễ-nghĩa và chính-trị mà thôi, chứ cái học uyên-áo như lúc đầu không có nữa. Xem như sau Mạnh-tử độ bốn năm mươi năm, ở vùng nước Triệu, có Tuân-tử là một cự-tử trong Nho-giáo, thế mà cái học-thuyết dẫu có nhiều điều rất tinh-vi, nhưng cái tôn-chỉ đã khác với cái tôn-chỉ của Khổng-giáo rồi.

Tuân-tử 荀 子 tên là Huống 况, tự là Khanh 卿, người nước Triệu. Ông sinh năm nào và mất năm nào, sách không nói rõ, nhưng cứ theo sách Sử-ký của Tư-mã Thiên, thì khi ông đã 50 tuổi mới sang du-học ở nước Tề. Các nhà khảo-cứu tính ra ông sinh vào quãng năm 315 và 310 trước Tây-lịch, kém Mạnh-tử độ năm sáu mươi tuổi. Đến quãng năm 265 và 260 thì ông sang nước Tề, cách mấy năm ông sang nước Tần, rồi về nước Triệu. Sau cùng vào quãng năm 255 ông sang nước Sở. Lúc ấy Xuân-thân-quân làm tướng nước Sở, dùng ông làm quan lịnh ở đất Lan-lăng. Năm 238, Xuân-thân-quân mất, thì ông thôi quan, nhưng vẫn ở đất Lan-lăng đến quãng năm 230 trước Tây-lịch thì mất, thọ độ chừng hơn 80 tuổi.

Sách của ông để lại hiện nay có một bộ gọi là Tuân-tử, tất cả là 32 thiên. Cứ theo những lời bàn của các nhà khảo-cứu, thì trong 32 thiên ấy, chỉ có thiên Thiên-luận, Giải-tế, Chính-danhTính-ác là chính thật cái tinh-hoa của Tuân-tử, còn các thiên khác thì có lắm chỗ của người đời sau phụ-họa vào, hoặc sai-lạc đi nhiều.

Không rõ Tuân-tử thuộc về học-phái nào trong Nho-giáo. Có người nói rằng ông thuộc về phái Tử-Hạ, nhưng không có bằng chứng gì xác-thực. Vả xem ở cuối thiên Phi-thập-nhị-tử có chỗ ông chê sự hành-động của học-phái Tử-Trương, Tử-Hạ và Tử-Du. Ông nói rằng: « Vũ hành nhi Thuấn xu, thị Tử-Trương thị chi tiện nho giã; chính kỳ y quan, tề kỳ nhan sắc, khiểm-nhiên nhi chung nhật bất ngôn, thị Tử-Hạ thị chi tiện nho giã; thâu nhu đạn sự, vô liêm-sỉ nhi thị ẩm thực. tất viết quân-tử cố bất dụng lực, thị Tử-Du thị chi tiện-nho giã 禹 行 而 舜 趨,是 子 張 氏 之 賤 儒 也;正 其 衣 冠,齊 其 顏 色,嗛 然 而 終 日 不 言,是 子 夏 氏 之 賤 儒 也:偷 懦 憚 事,無 廉 恥 而 耆 飲 食,必 曰 君 子 固 不 用 力,是 子 游 氏 之 賤 儒 也: Đi theo lối vua Vũ, tới theo lối vua Thuấn, ấy là bọn tiện-nho của họ Tử-Trương, sửa mũ áo cho ngay chính, giữ dáng điệu cho đều-đặn, dìn giữ cả ngày không nói điều gì, ấy là bọn tiện-nho của họ Tử-Hạ; rụt-rè, sợ việc, không có liêm-sỉ mà thích ăn uống, nói là quân-tử vốn không dùng sức làm việc gi, ấy là bọn tiện-nho của họ Tử-Du ». Nếu ông là học-trò những phái ấy, thì đã không có loi phê-bình như thế. Vậy chắc là Tuân-tử không phải thuộc về phái Tử-Hạ.

Xem trong sách Tuân-tử có nhiều chỗ như ở thiên Phi-tướng, thiên Phi-thập-nhị-tử và thiên Nho-hiệu, Tuân-tử đem Tử-Cung 子 弓 đứng liền với Khổng-tử và cho là hai bậc thánh-nhân, hai bậc đại-nho. Ông nói ở thiên Phi-thập nhị-tử rằng: « Không có chỗ đất cắm cái dùi, mà bậc vương công không thể cùng với những người ấy tranh cái danh-dự. Ở cái ngôi một bậc đại-phu mà một ông vua không thể nuôi được, một nước không thể dung nổi. Cái danh-dự của những người ấy không ai so-sánh được, cho nên Chư-hầu ai cũng muốn được những người ấy mà dùng. Những người ấy là bậc thánh-nhân không đắc thời-thế. Ấy là Khổng-tử và Tử-Cung vậy. Lấy thiên-hạ làm một, tài bồi cho muôn vật, gây nuôi nhân-dân, gồm lợi cho thiên-hạ. Chỗ nào có người ở thì không có ai là không phục-tòng, lục thuyết im lặng, thập-nhị tử[1] đều biến đổi thành hay. Ấy là lúc những bậc thánh-nhân đắc-thế như vua Thuấn vua Vũ vậy. Nay những bậc thánh-nhân nên làm những việc gì? Trên phải theo cái chế-độ vua Thuấn vua Vũ, dưới phải theo cái nghĩa Trọng-Ni và Tử-Cung, để làm cho im cái thuyết của thập-nhị tử. Như thế thì trừ được cái hại của thiên-hạ, làm hết được cái việc của bậc nhân-nhân, và làm rõ được cái sự-tích của thánh-vương ».

Xem lời Tuân-tử nói Tử-Cung mà cung-kính như thế, thì có lẽ ông là học-trò phái Tử-Cung. Nhưng Tử-Cung là ai? Sách Hán-thư Nho-lâm-truyện chép rằng: « Đời Chiến quốc có Hàn-Tý 馯 臂 tên tự là Tử-Cung-người đất Giang-đông có học Dịch ». Song ngoài sự học Dịch ra, thì không có danh tiếng gì khác nữa. Vậy nên có người nói rằng Tử-Cung tức là Trọng-Cung. Đó cũng là lời nói phỏng mà thôi, chứ không lấy gì làm đích-xác cho lắm.

Dẫu Tuân-tử thuộc về phái nào mặc lòng ông là một nhà đại-nho về cuối đời Chiến-quốc. Thủa ấy ở nước Tàu, Nho-giáo, Lão-giáo và Mặc-giáo đều thịnh-hành cả. Các học-giả xuất nhập ở ba học-thuyết ấy, nhưng mỗi người theo một tôn-chỉ, hoặc thiên về mặt kiêm-ái, hoặc thiên về mặt vị-ngã, hoặc sùng-bái thiên-nhiên, hoặc chú-trọng về mặt khoa-học hay là triết-lý, hoặc chú-trọng về mặt chính-trị và hình-pháp. Các học-thuyết phân-vân công-kích lẫn nhau, thật là một thời-đại học-thuật rất thịnh vậy. Những học-giả thời ấy ai cũng khuynh-hướng về mặt biện-thuyết lấy văn-từ mà tranh hơn tranh kém. Chính những người bên Nho-giáo cũng theo cái phong-trào ấy, mà bỏ mất cái thái-độ khuếch-nhiên thái-công của Khổng-giáo lúc đầu. Tuân-tử cũng dùng lối biện-luận, mà công-kích các học-thuyết khác. Trong sách của ông thường hay bàn đến những học-thuyết ấy và những lời ông phê-bình có lắm điều rất có giá-trị. Ông nói ở thiên Thiên-luân rằng: « Thận-tử hữu kiến ư hậu, vô kiến ư tiên; Lão-tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư thân, Mặc-tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư ky; Tống-tử hữu kiến ư thiểu vô kiến ư đa. Hữu hậu nhi vô tiên, tắc quần chúng vô môn; hữu khuất nhi vô thân, tắc quí tiện bất phân; hữu tề nhi vô ky, tắc chính lệnh bất thi; hữu thiểu nhi vô đa, tắc quần chúng bất hóa 慎 子 有 見 於 後,無 見 於 先;老 子 有 見 於 詘,無 見 於 信;墨 子 有 見 於 齊,無 見 於 畸;宋 子 有 見 於 少,無 見 於 多.有 後 而 無 先,則 羣 眾 無 門;有 詘 而 無 信,則 貴 賤 不 分;有 齊 而 無 畸,則 政 令 不 施;有 少 而 無 多,則 羣 眾 不 化;Thận-tử có thấy ở sau không thấy ở trước; Lão-tử có thấy ở lẽ khuất, không thấy ở lẽ thân; Mặc-tử có thấy ở cái nhất-tề, không thấy ở cái không nhất-tề; Tống-tử có thấy ở cái ít, không thấy ở cái nhiều[2]. Có sau mà không có trước, thì quần-chúng không có môn-hộ mà ra; có lẽ khuất mà không có lẽ thân, thì sang hèn không phân-biệt; có nhất-tề mà không có sai-đẳng, chính-lệnh không thi-thố ra; có cái ít mà không có cái nhiều, thì quần-chúng không hóa ». Đó là ông chê những nhà triết-học ấy đều thiên, chứ không có cái trung. Thường các học-thuyết mà thiên đi như thế là vì có điều ứ-trệ, không thông, cho nên ông nói rằng: « Mặc-tử tế ư dụng nhi bất tri văn; Tống-tử tế ư dục nhi bất tri đắc; Thận-tự tế ư pháp nhi bất tri hiền; Thân-tử tế ư thế nhi bất tri trí; Huệ-tử tế ư từ nhi bất tri thực; Trang-tử tế ư thiên nhi bất tri nhân. Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hỹ; do dục vị chi, đạo tận khiểm hỹ; do pháp vị chi, đạo tận số hỹ; do thế vị chi, đạo tận tiện hỹ; do từ vị chi, đạo tận luận hỹ; do thiên vị chi, đạo tận nhân hỹ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung giã 墨 子 蔽 於 用 而 不 知 文;宋 子 蔽 於 欲 而 不 知 得;慎 子 蔽 於 法 而 不 知 賢;申 子 蔽 於 勢 而 不 知 知;惠 子 蔽 於 辭 而 不 知 實;莊 子 蔽 於 天 而 不 知 人.故 由 用 謂 之,道 盡 利 矣;由 欲 謂 之,道 盡 嗛 矣;由 法 謂 之,道 盡 數 矣;由 勢 謂 之,道 盡 便 矣;由 辭 謂 之,道 盡 論 矣;由 天 謂 之,道 盡 因 矣.此 數 具 者 皆 道 之 一 隅 也: Mặc-tử bị tế-tắc về cái dụng mà không biết cái văn; Tống-tử bị tế-tắc về cái dục mà không biết cái được; Thận-tử bị tế-tắc về pháp-luật mà không biết dùng người hiền; Thân-tử bị tế-tắc về quyền-thế mà không biết dùng trí; Huệ-tử bị tế-tắc về hư-từ mà không biết cái thực lý; Trang tử bị tế-tắc về trời mà không biết có người. Cho nên theo cái dụng, thì cái đạo của thiên-hạ chú hết cả về sự cầu lợi; theo cái sở dục của người ta mà không biết có sự hạn-chế, thì cái đạo của thiên-hạ chú hết cả về sự khoái-chí; theo pháp-luật, thì cái đạo của thiên-hạ chú hết cả về thuật-số; theo quyền-thế, thì cái đạo của thiên-hạ chú hết cả về sự tiện-lợi; theo cái hư-từ, thì cái đạo của thiên-hạ chú hết cả về biện-luận; theo trời, thì cái đạo của thiên-hạ chú hết cả về nguyên-nhân. Mấy điều ấy đều là một góc của đạo vậy », (Giải-tế, XXI).

Đại-để cái học của Tuân-tử thường chủ ở sự bài-bác các học-phái để phát-minh Nho-giáo ra. Song cũng vì ông quá thiên về sự biện-luận cho nên cái học của ông tuy có phần sở trường về đường luận-lý, nhưng lại sở đoản về đường tâm-đắc. Ấy bởi thế mà thành ra không đúng với tinh-thần của Khổng-giáo vậy.

Tuân-tử tuy là một cự-tử trong Nho-giáo, nhưng vì ông hấp-thụ cái không-khí đời Chiến-quốc, cho nên ông thiên về mặt biện-luận mà bỏ mất cái lối tâm-học uyên-bác của Khổng-giáo. Ông không nói đến cái nghĩa rộng chữ nhân của Khổng-tử, và chỉ hiểu cái nghĩa hẹp chữ nhânái-nhân 愛 人 mà thôi, và ông lại không nhận có cái lương-tri, lương-năng của Mạnh-tử, thành thử cái khởi-điểm đã sai, thì cái học-thuyết có nhiều chỗ không đúng nữa. Bởi vậy hậu nho vẫn không nhận cái học của ông là chính truyền. Nhưng vì cái học ấy có ảnh-hưởng rất lớn với Nho-học về sau, cho nên ta phải chú-ý mà xét cho tường-tận.

Nay ta muốn biết rõ cái học của Tuân-tử sở đồng sở dị với cái học của Khổng-tử và Mạnh-tử là thế nào, ta nên xét trong sách Tuân-tử xem cái học ấy sở chủ ở những điều gì. Trừ ra cái học thượng-lễ, chính-danh và trọng vương khinh bá, vốn là ở trong phạm-vi của Nho-giáo, thì cái học của Tuân-tử có ba điều rất đặc-biệt: 1• Bất dữ thiên tranh chức; 2• Tính ác; 3• Pháp hậu vương.

Về đường triết-lý thì Tuân-tử cho Trời với người không quan-hệ gì với nhau, cho nên ông chỉ muốn biết việc người mà không muốn biết việc Trời. Về đường giáo-dục, thì ông cho tính người là ác, cho nên cần phải dùng lễ nghĩa để hóa dở ra hay. Về đường xã-hội và chính-trị, thì ông cho xưa nay vốn là một lý, chứ không có điều gì khác, vậy theo tiên vương thì xa quá, không biết rõ được các chế-độ, chi bằng cứ theo hậu vương mà làm.

Đó là ba cái yếu-điểm trong sự học của Tuân-tử, mà chính là ba điều tương phản với cái tôn-chỉ của Khổng-giáo. Bởi những lẽ ấy, cho nên cái học của ông tuy không phải là không có phần thâm viễn, nhưng vẫn không được ung-dung hoằng-đại như cái học của Khổng Mạnh.

Nay ta chia cái học-thuyết của Tuân-tử ra những mục như sau này:

I. Quan-niệm về Trời và người
II. Tâm-lý-học
III. Chính-danh-học
IV. Giáo-dục triết-lý
V. Chính-trị triết-lý

I. — QUAN-NIỆM VỀ TRỜI VÀ NGƯỜI

Thiên-nhân bất tương quan. — Tuân-tử cũng tin có Trời, nhưng ông cho đạo trời không quan-hệ gì đến đạo người. Việc trị loạn, cuộc thịnh suy là do người làm ra, chứ không phải là tại Trời. Ông nói rằng: « Thiên hành hữu thường, bất vị Nghiêu tồn, bất vị Kiệt vong. Ứng chi dĩ trị tắc cát, ứng chi dĩ loạn tắc hung 天 行 有 常,不 爲 堯 存,不 爲 桀 亡.應 之 以 治 則 吉,應 之 以 亂 則 凶 Việc làm của Trời có đạo thường, không vì vua Nghiêu mà đạo ấy còn, không vì vua Kiệt mà đạo ấy mất. Lấy sự trị mà đối-phó với đạo ấy, thì lành; lấy sự loạn mà đối-phó với đạo ấy, thì dữ ». (Thiên-luận, XVII). Cứ như cái ý-kiến ấy, thì việc hay việc dở của người ta, là tự người ta làm ra. Trời không có can-thiệp gì đến cả. Bởi vậy mới nói rằng: « Làm cho mạnh cái gốc, mà sự dùng có tiết độ, thì Trời không thể làm cho nghèo đói được; dự-bị sự nuôi và hành-động thuận thời, thì Trời không thể gieo bệnh-tật cho được; sửa đạo mà không trái với đạo, thì Trời không gây vạ cho người được. Cho nên thủy hạn không có thể khiến cho người phải đói khát được, rét nóng không thể khiến cho người ta đau ốm; yêu quái không thể làm hại được người. Cái gốc bỏ mà sự dùng xa-xỉ, thì Trời không thể làm cho giàu được; sự nuôi sơ-lược mà sự hành-động ít, thì Trời không thể làm cho trọn vẹn được; trái với đạo mà làm càn thì Trời cũng không thể làm cho tốt lành được. Cho nên chưa có thủy hạn mà đã đói khổ, chưa có nóng lạnh mà đã ốm đau, chưa có yêu quái mà đã bị điều hung-ác. Cái thời với đời trị giống nhau, mà cái tai vạ với đời trị thì khác nhau, không vì thế mà oán Trời, bởi cái đạo tự-nhiên là vậy. Cho nên ai mà rõ sự phân-cách của Trời và người, thì có thể gọi là bậc chí-nhân 至 人.

« Không làm mà nên, không cầu mà được, gọi là cái chức-vụ của Trời. Như vậy, đạo trời tuy thâm viễn, nhưng bậc chí-nhân không hề để ý lo nghĩ đến; tuy cao-đại nhưng không hề để ý suy-xét đến; ấy gọi là không tranh cái chức-vụ của Trời. Trời có thời của Trời, đất có tài-sản của đất, người có việc trị của người, ấy gọi là có thể ngang với trời đất. Bỏ cái của mình có thể lấy mà ngang với trời đất mà chỉ muốn cái ngang với trời đất thì lầm vậy ». (Thiên-luận, XVII).

« Bất dữ thiên tranh chức 不 與 天 爭 職: Không tranh cái chức-vụ của Trời », đó là cái tư-tưởng đặc-biệt của Tuân-tử. Ông bài-xích cái thuyết Trời có ý-chí thưởng phạt sự thiện sự ác của Mặc-giáo và cái thuyết sùng-bái thiên-nhiên của Lão-giáo. Cái học của ông chủ ở sự tôn-sùng việc người làm, cốt tiến-thủ ở trong cuộc sinh-hoạt của loài người. Cái học ấy tuy có một phần thích hợp với cái học của Nho-giáo, nhưng vì ông thiên hẳn về mặt thiên-nhân bất tương quan, cho nên thành ra lại khác với cái học của họ Khổng và họ Mạnh.

Tuân-tử muốn rằng người ta chỉ nên biết việc người, để làm cho người ta mỗi ngày một tiến-bộ thêm, chứ không cần biết việc Trời. Vì Trời với người đã không quan-hệ với nhau, thì trông cậy ở Trời có được ích gì? « Cố quân-tử kính kỳ tại kỷ giả, nhi bất mộ kỳ tại thiên giả; tiểu-nhân thố kỳ tại kỷ giả, nhi mộ kỳ tại thiên giả. Quân-tử kính kỳ tại kỷ giả, nhi bất mộ kỳ tại thiên giả, thị dĩ nhật tiến giã; tiểu-nhân thố kỳ lại kỷ giả, nhi mộ kỳ tại thiên giả, thị dĩ nhật thoái giã 故 君 子 敬 其 在 己 者,而 不 慕 其 在 天 者;小 人 錯 其 在 己 者,而 慕 其 在 天 者.君 子 敬 其 在 己 者,而 不 慕 其 在 天 者,是 以 日 進 也;小 人 錯 其 在 己 者,而 慕 其 在 天 者,是 以 日 退 也: Cho nên người quân-tử chỉ kính cái ở mình, mà không mến cái ở Trời; kẻ tiểu-nhân thì bỏ cái ở mình, mà mến cái ở Trời. Người quân-tử chỉ kính cái ở mình mà không mến cái ở Trời, cho nên một ngày một tiến; kẻ tiểu-nhân bỏ cái ở mình, mà mến cái ở Trời, cho nên một ngày một lui vậy ». (Thiên-luận, XVII). Người quân-tử với kẻ tiểu-nhân chỉ khác nhau có nhật tiến và nhật thoái mà thôi. Vậy muốn nhật tiến thì cần phải biết nhân sự mà không cần biết thiên ý

Đạo người là phải tìm cách chinh-phục việc làm của Trời để làm việc dùng của người. « Đại thiên nhi tư chi, thục dữ vật súc nhi chế tài chi. Tòng thiên nhi tụng chi, thục dữ chế thiên mệnh nhi dụng chi? Vọng thời nhi đãi chi, thục dữ ứng thời nhi sử chi? Nhân vật nhi đa chi, thục dữ sinh năng nhi hóa chi? Tư vật nhi vật chi, thục dữ lý vật nhi vật thất chi giã? Nguyện ư vật chi sở dĩ sinh, thục dữ hữu vật chi sở dĩ thành? Cố thố nhân nhi tư thiên, tắc thất vạn vật chi tình. Bách vương chi vô biến túc dĩ vi đạo quán: nhất phế nhất khởi ứng chi dĩ quán, lý quán bất loạn, bất tri quán bất tri ứng biến 大 天 而 思 之,孰 與 物 畜 而 制 裁 之?從 天 而 頌 之,孰 與 制 天 命 而 用 之?望 時 而 待 之,孰 與 應 時 而 使 之?因 物 而 多 之,孰 與 聘 能 而 化 之思 物 而 物 之,孰 與 理 物 而 勿 失 之 也?願 於 物 之 所 以 生,孰 與 有 物 之 所 以 成?故 錯 人 而 思 天,則 失 萬 物 之 情.百 王 之 無 變 足 以 爲 道 貫:一 廢 一 起 應 之 以 貫,理 貫 不 亂,不 知 貫 不 知 應 變: Tôn đại Trời mà mến Trời, thì sao bằng để cho vật có súc tích nhiều, ta tài-chế nó mà dùng? Theo Trời mà ngợi khen Trời, thì sao bằng tài-chế cái mệnh Trời mà dùng? Mong thời mà đợi thời đến, thì sao bằng ứng thời mà khiến? Nhân những vật đã có sẵn mà làm cho nhiều ra, thì sao bằng dùng cái tài-trí của mình mà hóa ra cho nhiều? Nghĩ được vạn vật sẵn có mà dùng, thì sao bằng trị vạn vật cho hợp lý, không để mất những vật ấy? Mong cho vạn vật sinh ra thì sao bằng làm cho thành-tựu các vật ấy? Cho nên bỏ người mà nghĩ đến Trời, thì sai mất cái tình thật của vạn vật. Những cái không biến đổi của bách vương đủ làm cái điều-qnán của đạo. Dầu có lúc phế lúc khởi, song bao giờ cũng có cái điều-quán ấy, cái lý phải có điều-quán thì mới không loạn, không biết cái điều-quán thì không biết ứng biến ». (Thiên-luận, XVII). Ý Tuân-tử nói rằng vạn vật sinh ra tuy là do ở Trời, nhưng vạn vật thành-tựu là do ở người, chứ không phải ở Trời. Nếu ta lại bỏ việc người mà cứ mong ở Trời, thì thành ra lao tâm khổ tứ mà vẫn không có ích gì.

Trời với vạn vật tuy có cái liên-lạc sinh-hóa, nhưng mỗi bên có một cái chức-vụ riêng. Vậy việc Trời và việc người không có quan-hệ gì với nhau cả. Ta biết như thế, thì dẫu có những điều quái lạ, ta cũng không lo sợ. « Sao sa, gỗ kêu, người ta lấy làm sợ, ấy là tại lẽ gì? — Không có lẽ gì cả. Đó là sự biến của trời đất, sự hóa sự âm dương, sự ít khi có của loài vật. Ta chỉ nên lấy làm lạ mà thôi, chứ sợ là không phải. Mặt trời, mặt trăng, có khi ăn lẫn nhau, mưa gió không phải thời, các sao lạ xuất-hiện ra, ấy là không đời nào không có. Người trên sáng suốt mà việc chính-trị hòa-bình, thì dẫu trong đời có đủ các điều ấy cũng không hại gì. Nguời trên mờ tối mà việc chính-trị hiểm-độc, thì tuy trong đời không sẩy ra điều gì lạ cả, cũng không có ích gì ». (Thiên-luận, XVII).

Có người cãi rằng: nếu việc Trời và việc người không quan-hệ với nhau, thì sao trời nắng, mà đảo-vũ lại mưa, sao bói-toán lại có ứng-nghiệm? Tuân-tử cho những điều ấy không phải là sự cảm-ứng của trời đất, nhưng là việc của những nhà chính-trị bày đặt ra cho có văn-vẻ để yên lòng người mà thôi. Cho nên ông nói rằng: « -Đảo-vũ mà mưa là sao? Không sao cả, cũng như không đảo-vũ mà mưa vậy. Nhật-thực nguyệt-thực thì cứu[3], trời hạn-hán thì đảo-vũ, bói cỏ thi mai rùa rồi mới quyết việc lớn, những việc ấy không phải là làm thế mà cầu được, nhưng để làm cho có văn sức việc chính-trị vậy.

Cho nên người quân-tử thì lấy làm việc văn-sức, mà trăm họ thì lấy làm việc thần-thánh. Lấy làm việc văn-sức thì lành, lấy làm việc thần-thánh thì dữ vậy». (Thiên-luận, VXII). Lành là lấy những việc ấy làm sự văn-tiết cho thuận cái tình của người ta mà không mê-tín, cho nên không hại; dữ là nếu cho những việc ấy là việc thần-thánh, thì lòng người sinh ra nhiều mối mê-hoặc, thờ cúng bậy-bạ để cầu lợi cầu phúc, làm thành cái vạ lớn cho thiên-hạ. Cái ý-tưởng ấy của Tuân-tử thật là rõ-ràng và thật chính-đáng vậy.

Việc Trời và việc vạn vật khác nhau thế nào? Tuân-tử nói rằng: « Vạn vật các đắc kỳ hòa dĩ sinh, các đắc kỳ dưỡng dĩ thành, bất kiến kỳ sự nhi kiến kỳ công, phù thị chi vị thần. Giai tri kỳ sở dĩ thành, mạc tri kỳ vô-hình, phù thị chi vị thiên 萬 物 各 得 其 和 以 生,各 得 其 養 以 成,不 見 其 事 而 見 其 功,夫 是 之 謂 神.皆 知 其 所 以 成,莫 知 其 無 形,夫 是 之 謂 天: Muôn vật đều được cái hòa-khí của nó mà sinh ra, đều được cái nuôi của nó mà thành trưởng, không thấy việc làm mà có thấy có công-hiệu, thế gọi là thần. Người ta ai cũng biết cái đã thành hình, không biết được cái vô hình, ấy thế gọi là Trời». Ta đã biết rõ việc Trời và việc vạn vật, thì ta cứ theo cái chức-vụ của ta mà làm cho hay hơn tốt hơn những cái của Trời đã sinh ra, chứ không cần biết việc Trời. Bởi vậy mới nói rằng: « Duy có bậc thánh-nhân là không cần biết việc Trời, cái chức của Trời đã dựng, cái công của Trời đã nên, người đã có đủ hình-hài, mà tinh-thần đã sinh ra, thì sự yêu, ghét, mừng, giận, thương, vui, đều có sẵn trong đó rồi, thế gọi là thiên-tình 天 情; tai, mắt, mũi, mồm, hình-thể, đều có bản-năng liên-tiếp với nhau, mà cái nọ không dùng được cái kia, thế gọi là thiên-quan 天 官, cái tâm ở giữa, hư-không, để trị ngũ-quan, thế gọi là thiên-quân 天 君; tài-chế các loài, không phải loài mình, để nuôi loài mình, thế gọi là thiên-dưỡng 天 養; thuận loài người là phúc, trái loài người là vạ, thế gọi thiên-chính 天 政. Làm tối cái thiên-quân, loạn cái thiên-quan, bỏ cái thiên-dưỡng, trái cái thiên-chính, sai cái thiên-tình, để làm hỏng cái thiên-công 天 功, thế gọi là đại-hung. Bậc thánh-nhân làm cho trong-sạch cái thiên-quân, ngay chính cái thiên-quan, đủ cái thiên-dưỡng, thuận cái thiên-chính, nuôi cái thiên-tình, để cho trọn vẹn cái thiên-công, như thế là biết cái nên làm và biết cái không nên làm, cho nên mới cai-quản được trời đất và dịch-sử được muôn vật. Những sự làm không có cái gì là không trị, những sự nuôi không có cái gì là không thích-nghi, những sự sinh-hoạt không có cái gì là bị hại, thế gọi là biết Trời. Cho nên người đại-xảo là khéo ở chỗ không làm (không làm việc trời), người đại-trí là khôn ở chỗ không lo (không lo việc trời). Những cái mà ta đã biết có ở trên trời thì ta đã đủ rõ cái thùy-tượng của trời, khả lấy mà biết được thời-tiết vậy. Những cái mà ta đã biết có ở dưới đất, thì ta đã đủ rõ cái thổ-nghi của đất, khả lấy mà trồng-trọt sinh-sản ra vậy. Những cái mà ta đã biết có ở bốn thời, thì ta đã đủ rõ cái lẽ thuận-thời, khả lấy mà làm-ăn vậy. Những cái mà ta đã biết có ở âm dương, thì ta đã đủ rõ cái lẽ sinh sát thưởng phạt, khả lấy mà đặt phép trị vậy. Dùng người, giữ chức-vụ của Trời, mà tự mình làm việc thủ đạo vậy (quan nhân, thủ thiên, nhi tự vi thủ đạo giã 官 人,守 天,而 自 爲 守 道 也).

« Trị loạn có phải là tại Trời không? — Rằng mặt-trời mặt-trăng, các ngôi tinh-tú cùng cách làm lịch, thì trời của vua Vũ và trời của vua Kiệt giống nhau, thế mà vua Vũ thì trị, vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại Trời. — Trị loạn có phải là tại thời không? — Rằng sự sinh-sôi nảy-nở ở mùa xuân mùa hạ, sự súc-tích thu-tàng ở mùa thu mùa đông, thì thời của Vũ và thời của vua Kiệt cũng giống nhau, thế mà vua Vũ thì trị vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại thời. — Trị loạn có phải là tại đất không? — Rằng được đất thì sống, mất đất thì chết, thì đất của vua Vũ và đất của vua Kiệt cũng giống nhau, thế mà vua Vũ thì trị, vua Kiệt thì loạn, vậy trị loạn không phải là tại đất.

« Trời không vì người ta sợ rét mà thôi mùa đông, đất không vì người sợ xa mà hẹp lại, người quân-tử không vì bọn tiểu-nhân nghị-luận rầm-rĩ mà thôi việc hành-vi của mình. Trời vẫn có đạo thường, đất vẫn có cái số thường, người quân-tử vẫn có cái thể thường vậy. Người quân-tử chỉ nói cái đạo thường, mà kẻ tiểu-nhân thì chỉ kể cái công lợi ». (Thiên-luận XVII).

Cái quan-niệm chia Trời với người phân-biệt ra như thế, là khởi đầu từ Tuân-tử. Về sau các học-giả trong Nho-giáo có người theo cái học ấy mà bác cái thuyết thiên nhân tương dữ. Có lẽ bởi đó mà thành ra có người nói Nho-giáo là đạo vô thần vậy.

II. — TÂM-LÝ HỌC

Tâm và đạo. — Tuân-tử đã bác cái thuyết thiên nhân tương dữ và cho người quân-tử chỉ nên biết đạo người mà thôi, thì cái học của ông tất là phải chú-trọng ở việc người và sự tri-thức của người. Vậy nên cái tâm lý-học của ông rất tinh-tường.

Ông cho tâm là chủ-tể cả vạn vật và vạn sự. Ngoài cái tâm ra thì không có sự tri-thức và sự hành-động gì cả, mà dẫu có nữa, thì cũng không có ý-nghĩa và thống-hệ, thành ra cũng như không. « Tâm giả hình chi quân giã, nhi thần-minh chi chủ giã, xuất lệnh nhi vô sở thụ lệnh. Tự cấm giã, tự sử giã, tự đoạt giã, tự thủ giã, tự hành giã, tự chỉ giã 心 者 形 之 君 也,而 神 明 之 主 也,出 令 而 無 所 受 令.自 禁 也,自 使 也,自 奪 也,自 取 也,自 行 也,自 止 也: Tâm, là vua cái hình-thể, là chủ cái thần-minh, ra lệnh mà không chịu lệnh ở đâu cả. Tự cấm lấy, tự khiến lấy, tự cướp lấy, tự lấy lấy, tự làm lấy, tự thôi lấy ». (Giải-tế, XXI). Bởi chưng tâm là chủ thì chỉ ra lệnh mà sai khiến bách thể, chứ bách thể không sai khiến được. « Cho nên cái miệng thì có thể bắt ép phải im không được nói, cái hình-thể thì có thể bắt ép phải co lại, duỗi ra chứ cái tâm thì không bắt ép mà khiến đổ ý đi được. Cứ phải thì chịu, trái thì bỏ ». (Giải-tế. XXI)

Tâm có cái năng-lực tự chủ không có cái gì bắt buộc được. Nhưng có một điều đáng lo, là đối với ngoại vật, nếu tâm không có cái gì làm chuẩn-đích thì thường hay bị tế-tắc, làm cho không thấy rõ cái chính, cái phải. Tâm đã bị tế-tắc ở chỗ nào, thì chỉ biết có chỗ ấy mà thôi, chứ không suốt được cái lý lớn, chung cả thiên-hạ. Cho nên nói rằng: « Phàm nhân chi hoạn, tế ư nhất khúc nhi ám ư đại lý 凡 人 之 患,蔽 於 一 曲 而 闇 於 大 理: Phàm cái lo của người ta là cái tế-tắc ở một khúc mà mờ tối mất cái lý lớn ». (Giải-tế, XXI).

Hễ người ta đã thiên về cái gì, thì chỉ biết cái ấy là hay, là phải mà thôi, chứ không muốn nghe nói đến cái dở của cái ấy, hoặc là cái hay của cái khác nữa. Tư kỳ sở tích, duy khủng văn kỳ ác giã; ỷ kỳ sở tư dĩ quan dị thuật, duy khủng văn kỳ mỹ giã 私 其 所 積,唯 恐 聞 其 惡 也;倚 其 所 私,以 觀 異 術,唯 恐 聞 其 美 也: Đã thiên-tư về cái tích-tập của mình, thì chỉ sợ nghe nói đến cái xấu của sự tích-tập ấy; đã nương-tựa vào cái thiên-tư của mình để xem cái thuật khác, thì chỉ sợ nghe nói đến cái hay của thuật ấy » (Giải-tế, XXI). Đó là cái tâm mới thiên đi, mà đã như thế, huống nữa là khi cái tâm lại bị ngoại vật dịch-sử được rồi, thì biết là thế nào? « Tâm bất sử yên, tắc bạch hắc tại tiền, nhi mục bất kiến, lôi cổ tại trắc nhi nhĩ bất văn, huống ư sử giả hồ 心 不 使 焉,則 白 黑 在 前,而 目 不 見,雷 鼓 在 側,而 耳 不 聞,况 於 使 者 乎: Tâm không bị dịch-sử mà cái trắng cái đen ở trước mắt, mắt trông không thấy, sét và trống đánh bên cạnh, tai nghe không thấy, huống chi đã bị dịch-sử hay sao? » (Giải-tế, XXI).

Vạn vật bề-bộn tất là tế-tắc lẫn nhau, cho nên cái tâm phải lấy điều ấy làm lo. « Phàm vạn vật dị, tắc mạc bất tương vi tế, thử tâm thuật chi công hoạn giã 凡 萬 物 異,則 莫 不 相 爲 蔽,此 心 術 之 公 患 也: Muôn vật khác nhau thì không có vật nào không tế-tắc lẫn nhau, ấy là cái lo chung của tâm thuật vậy ». (Giải-tế, XXI).

Vì có cái lo ấy cho nên thánh-nhân tìm cách làm cho cái tâm suốt được cái lý lớn, không để cho bị tế-tắc về điều gì. « Thánh-nhân biết cái lo của tâm thuật, thấy cái vạ của sự tế-tắc, cho nên không muốn, không ghét, không trước, không sau, không gần, không xa, không rộng, không nông, không xưa, không nay, gồm cả vạn vật mà treo cái cán cân ở giữa vậy. Bởi thế mọi vật khác nhau mà không thể tế-tắc được nhau và không làm loạn mất thứ bậc ». (Giải-tế, XXI).

Cái cán cân ấy là cái gì? Là cái đạo. « Đạo giả, phi thiên chi đạo, phi địa chi đạo, nhân chi sở dĩ đạo giã, quân-tử chi sở đạo giã: 道 者,非 天 之 道,非 地 之 道,人 之 所 以 道 也,君 子 之 所 道 也: Đạo, không phải là đạo của trời, không phải là đạo của đất, chính là cái đạo của người ta lấy làm đạo, người quân-tử theo mà thi-hành vậy » (Nho-hiệu, VIII). Tuân-tử cho đạo là cái khuôn phép ai cũng phải theo mà hành-động. Vậy nên nói rằng: « Tâm không thể không biết đạo. Tâm mà không biết đạo, thì không cho đạo là phải mà cho cái trái đạo là phải. Ai là người đã muốn được túng-tứ, mà lại còn chịu giữ cái không hợp ý mình. để cấm cái hợp ý mình? Lấy cái tâm không cho đạo là phải mà đối với người ta, tất là hợp với người không có đạo, mà không hợp với người có đạo. Lấy cái tâm không cho đạo là phải, mà cùng với người không có đạo bàn người có đạo, đó là gốc loạn vậy. Bởi sao mà biết người có đạo? — Rằng bởi cái tâm. Biết đạo rồi sau mới cho đạo là phải, cho đạo là phải rồi sau mới giữ được đạo, để cấm cái trái đạo. Lấy cái tâm cho đạo là phải mà đối với người ta, thì hợp với người có đạo, mà không hợp với người không có đạo. Lấy cái tâm cho đạo là phải mà cùng với người có đạo bàn cái trái đạo, đó là cái cốt-yếu của sự trị vậy. Cái tâm đã biết đạo, thì lo gì không biết người có đạo? Vậy nên cái cốt-yếu của sự trị là ở sự biết đạo ». (Giải-tế, XXI).

Thể và dụng của tâm. — Tuân-tử rất chú-trọng về việc xét tâm-lý, cho nên ông phân-tích cái thể và cái dụng của tâm để khiến người chưa đắc đạo tìm được đạo. Ông nói rằng: « Nhân hà dĩ tri đạo? — Viết tâm. — Tâm hà dĩ tri? — Viết: hư, nhất nhi tĩnh. Tâm vị thường bất tàng giã, nhiên nhi hữu sở vị hư; tâm vị thường bất lưỡng giã, nhiên nhi hữu sở vị nhất; tâm vị thường bất động giã, nhiên nhi hữu sở vị tĩnh 人 何 以 知 道?— 曰 心.— 心 何 以 知?— 曰 虛,壹 而 靜. 心 未 嘗 不 藏 也,然 而 有 所 謂 虛;心 未 嘗 不 兩 也,然 而 有 所 謂 壹;心 未 嘗 不 動 也,然 而 有 所 謂 靜: Người ta làm thế nào mà biết đạo? — Rằng cái tâm. — Tâm làm thế nào mà biết? — Rằng: hư, nhất và tĩnh. Tâm chưa từng không chứa, thế mà có cái gọi là hư; tâm chưa từng không hai, thế mà có cái gọi là nhất; tâm chưa từng không động, thế mà có cái gọi là tĩnh ». (Giải-tế, XXI).

Thế nào gọi là tâm hư? « Nhân sinh nhi hữu tri, tri nhi hữu chí. Chí giã giả tàng giã. Nhiên nhi hữu sở vị hư: bất dĩ sở dĩ tàng, hại sở tương thụ, vị chi hư 人 生 而 有 知,知 而 有 志.志 也 者 藏 也.然 而 有 所 謂 虛:不 以 所 已 藏,害 所 將 受,謂 之 虛: Người sinh ra thì có cái biết, biết thì có cái nhớ. Nhớ là chứa vậy. Thế mà có cái gọi là hư: là vì không lấy cái đã chứa mà hại cái sắp chịu chứa, cho nên gọi là hư. » (Giải-tế, XX1). Tâm chứa hết cả các thứ cảm-giác. Nhưng cái chứa của tâm không như cái chứa của cái kho. Cái kho hễ chứa đầy rồi không chứa được nữa, chứ cái tâm thì đã chứa cái nọ lại chứa được cái kia, không bao giờ hết. Bởi thế lúc nào cũng có cái chứa mà vẫn là hư-không vậy, Người mà có cái tâm hư-không như thế, hễ thấy điều thiện, thì lúc nào cũng theo được, không bị ứ-trệ gì cả.

Thế nào gọi là nhất? « Tâm sinh nhi hữu tri, tri nhi hữu dị. Dị giã giả, đồng thời kiêm tri chị. Đồng thời kiêm tri chi, lưỡng giã. Nhiên nhi hữu sở vị nhất: bất dĩ phù nhất hại thử nhất, vị chi nhất 心 生 而 有 知,知 而 有 異.異 也 者,同 時 兼 知 之.同 時 兼 知 之,兩 也.然 而 有 所 謂 一:不 以 夫 一 害 此 一,謂 之 一: Tâm sinh ra thì có cái biết, biết thì có cái khác. Khác là đồng trong một thời mà gồm biết hết cả. Đồng trong một thời mà gồm biết hết cả, là hai vậy. Thế mà có cái gọi là nhất: là vì không lấy cái một này mà hại cái một kia, cho nên gọi là nhất », (Giải-tế, XXI). Tâm phải nhờ sự cảm-giác của ngũ quan mà biết cái hình, cái sắc, biết thanh âm trong đục, biết mùi ngọt đắng mặn nhạt. Những sự cảm-giác của ngũ quan rất là phức-tạp, mà đồng trong một lúc cái tâm biết rõ được cả. Theo cái tai mà biết tiếng, theo con mắt mà biết cái hình, không để cho hỗn-loạn, không lấy cái này hại cái kia. Bởi thế lúc nào cái tâm cũng biết nhiều mà vẫn là một,

Thế nào gọi là tĩnh? « Tâm ngọa tắc mộng, thâu tắc tự hành, sử chi tắc mưu. Cố tâm vị thường bất động giã. Nhiên nhi hữu sở vị tĩnh: bất dĩ mộng kịch loạn tri, vị chi tĩnh 心 臥 則 夢,偷 則 自 行,使 之 則 謀.故 心 未 嘗 不 動 也.然 而 有 所 謂 靜:不 以 夢 劇 亂 知 謂 之 靜: Lúc nằm nghỉ thì tâm mơ-tưởng, lúc cẩu-thả thì tâm phóng-túng, lúc làm công việc, thì tâm lo nghĩ. Cho nên tâm chưa từng không động. Thế mà có cái gọi là tĩnh: là không lấy cái mơ-tưởng mà làm rối-loạn cái biết, cho nên gọi là tĩnh ». (Giải-tế, XXI). Tâm lúc nào cũng hoạt-động: lúc mơ tưởng, tâm để hết cả vào cái mơ-tưởng, lúc lo nghĩ. tâm để hết cả vào việc lo nghĩ. Thế mà vẫn có cái thường, khiến cho lúc chuyên-nhất tiếp vật vẫn có cái tri-thức sáng-suốt, không bị cái gì làm mờ tối đi được. Bởi thế tâm lúc nào cũng động mà vẫn là tĩnh.

Người ta nhờ có tâm hư, nhất và tĩnh, cho nên mới có thể tìm được đạo, mà không bị những cái thiên-kiến, khúc thuyết làm ứ-trệ được. Bởi vậy mới nói: « Vị đắc đạo nhi cầu đạo giả, vị chi hư nhất nhi tĩnh. Tác chi tắc: Tương tu đạo giả, hư chi, hư tắc nhập; tương sự đạo giả, nhất chi, nhất tắc tận; tương tư đạo giả, tĩnh chi, tĩnh tắc sát... Hư nhất nhi tĩnh, vị chi đại thanh-minh. Vạn vật mạc hình nhi bất kiến, mạc kiến nhi bất luận, mạc luận nhi thất vị... Phù ô hữu tế hỹ tai! 未 得 道 而 求 道 者,謂 之 虛 一 而 靜.作 之 則:將 須 道 者,虛 之,虛 則 入;將 事 道 者,一 之,一 則 盡;將 思 道 者,靜 之,靜 則 察… 虛 一 而 靜,謂 之 大 清 明.萬 物 莫 形 而 不 見,莫 見 而 不 論,莫 論 而 失 位… 夫 惡 有 蔽 矣 哉[4]: Người chưa đắc đạo mà cầu đạo, thì phải hư nhất và tĩnh. Phép dùng là: Người sắp cần có đạo thì phải hư tâm, cái tâm đã hư-không thì vào được đạo; người sắp làm đạo thì phải nhất tâm, cái tâm đã chuyên-nhất thì hết được đạo; người sắp nghĩ đến đạo thì phải tĩnh tâm, cái tâm đã tĩnh thì xét rõ mọi lẽ... Hư, nhất và tĩnh, gọi là đại thanh-minh. Vạn vật không có cái gì có hình mà ta không thấy; không có cái gì ta trông thấy mà ta không biện-luận ra; không có cái gì ta biện-luận ra mà lại sai được... Như thế thì sao lại có cái tế-tắc nữa vậy thay ». (Giải tế, XXI)

Tình và dục.— Tuân-tử công kích cái thuyết quả dục và khử-dục. Ông cho rằng tình và dục là tự-nhiên ai cũng có, không thể bớt đi hay là bỏ đi mà không hại được. Thủa ấy các nhà học giả người thì nói việc trị cốt ở sự quả-dục, người thì nói việc trị cốt ở sự khử dục. Tuân-tử bác những thuyết ấy, và nói rằng: « Vậy thì cho cái tình của người ta là không có cái dục: mắt không muốn thấy cái sắc cực đẹp, tai không muốn nghe cái tiếng cực hay, miệng không muốn nếm cái vị cực ngon, mũi không muến ngửi cái hơi cực thơm, hình thể không muốn được cái dật-lạc, tức là đối với năm cái cực ấy, cũng cho là cái tình của người ta, là không muốn hay sao? —Rằng: cái tình và cái dục của người ta thế nào, thì của mình cũng vậy. — Rằng: nếu thế thì cái thuyết tất không thi-hành được. Cho nên cái tình của người ta là muốn năm cái cực ấy, mà lại bảo không muốn nhiều, thì cũng ví như bảo cái tình của người ta là muốn phú-quí mà không muốn của-cải, muốn sắc đẹp mà ghét Tây-Thi vậy. Người đời xưa không thế, lấy cái tình của người ta làm muốn nhiều mà không muốn ít, cho nên lấy sự phú hậu mà thưởng, lấy sự giết hại mà phạt. Đó là bách vương đều đồng thế cả ». (Chính-luận, XVII).

« Phàm người nói việc trị mà đợi ở sự bỏ cái dục, chính là người không có cách để đạo-dẫn cái dục, mà đã khốn-khổ ở sự có dục vậy. Phàm người nói việc trị mà đợi ở sự quả dục, chính là người không có cách để tiết-chế cái dục, mà đã khốn-khổ ở sự đa dục vậy. Sự hữu dục và sự vô dục là hai loài khác nhau, như cái sống và cái chết, chứ không phải việc trị và việc loạn. Cái dục nhiều hay ít là hai loài khác nhau, do cái số tất nhiên của cái tính, chứ không phải là việc trị việc loạn vậy. Cái dục không đợi có chắc là được mới muốn, mà sự cầu của cái dục thì theo cái gì nên muốn mới muốn. Cái dục mà không đợi cái khả đắc là bởi chịu của Trời vậy. Còn người tìm cái sở khả là bởi chịu của tâm. Thiên tính tự nhiên là có dục, mà tâm là để tiết-chế cái dục... Người ta muốn sống là rất mực vậy, ghét chết là rất mực vậy, thế mà có người theo cái sống, thành cái chết, không phải là không muốn sống mà muốn chết, nhưng là tại không cho cái sống là phải, mà cho cái chết là phải. Cho nên khi cái dục nhiều quá độ, mà sự động-tác không kịp, là bởi cái tâm ngăn lại; cái mà tâm đã cho là phải, mà hợp lý, thì cái dục tuy nhiều cũng không hại gì cho việc trị. Khi cái dục không kịp, mà sự động-tác nhiều quá độ, là bởi cái tâm sai khiến; cái mà tâm đã cho là phải, mà hợp lý, thì cái dục tuy ít, có ngăn thế nào được cái loạn? Cho nên việc trị, việc loạn là quan-hệ ở cái tâm cho là sở khả, chứ không quan-hệ ở cái sở dục của tình. Không tìm ở chỗ quan-hệ là cái tâm, mà đi tìm ở chỗ không quan-hệ là cái dục, thì tuy nói là ta được rồi, chính là ta mất rồi vậy. Tính là cái của Trời thành-tựu, tình là cái thể-chất của tính, dục là cái ứng-dụng của tình. Vậy lấy cái dục làm cái khả đắc mà cầu nó, là sự tất nhiên của tình, không tnể không được. Lấy cái dục làm phải, mà đạo-đạt nó, thì cái khôn biết tất ở đó mà ra vậy. Cho nên tuy người làm đứa canh-cửa, nhưng cái dục không thể bỏ được, bởi nó là cái cụ-thể của tính vậy. Tuy người làm thiên-tử, nhưng cái dục cũng không thể hết được. Cái dục tuy không thể hết được, nhưng sự tìm cái dục mà dùng có thể làm gần bớt hết được cái dục; cái dục tuy không thể bỏ được, nhưng sự tìm cái dục mà dùng có thể tiết-chế được cái dục... Kẻ có đạo, tiến thì có thể làm gần bớt hết được cái dục, thoái có thể tìm được sự tiết-chế cái dục, thiên-hạ không có gì bằng được. Phàm người ta là không ai không theo cái mình cho là phải, mà bỏ cái mình cho là không phải. Như vậy không gì bằng cách biết đạo, thế mà không theo đạo là không có vậy. Giả như một người có cái lòng muốn đi phương nam không được nhiều lắm, mà có cái lòng ghét đi phương bắc không được ít lắm, (lòng muốn đi phương nam tuy không được nhiều lắm, nhưng vẫn là muốn, lòng ghét đi phương bắc không được ít lắm, nhưng vẫn là ghét), há lại vì cái lòng đi phương nam không hết mà bỏ phương nam đi phương bắc hay sao? Cũng như nay người ta vì cái sở dục không được nhiều lắm, và cái sở ố không được ít lắm, há lại vì cái lòng sở dục không được hết, mà bỏ cái đạo đắc dục, để lấy cái sở ố hay sao? Cho nên theo cái khả lấy làm đạo, thì có hại gì mà loạn được? Bỏ cái không khả lấy làm đạo, thì có ích gì mà trị được? » (Chính danh, XXII).

Ý Tuân-tử nói rằng đã hợp đạo, thì dẫu theo cái thuyết hữu dục cũng không hại gì, mà đã không hợp đạo, thì dẫu theo cái thuyết khử dục, cũng không có ích gì. Người ta bất tất phải bỏ dục, nhưng chỉ cầu đạo-dẫn cái dục là được; bất tất phải quả dục, nhưng chỉ cần có tiết-độ là được. Cần nhất là phải có cái tâm chủ-tể, để khiến cái dục hợp với đạo lý, ví như quả cân để phân biệt nặng nhẹ và phải trái vậy.

« Phàm khi người ta lấy cái gì, thì cái muốn chưa từng thực thuần-túy là muốn mà đến vậy; khi bỏ cái gì, thì cái ghét chưa từng thực thuần-túy là ghét mà bỏ đi vậy. Cho nên người ta không lúc nào động mà lại không đi theo cái quyền (nghĩa là theo một thứ quả cân để định nặng nhẹ phải trái). Khi cái cán cân không ngay, thì cái nặng treo đằng chổng lên mà người ta cho là nhẹ; cái nhẹ treo đằng chúc xuống, mà người ta cho là nặng. Đó là người ta lầm về cái nặng nhẹ vậy. Khi cái quyền mà không chính, thì cái vạ nằm ở trong cái muốn, mà người ta cho là phúc; cái phúc nằm ở trong cái ghét, mà người ta cho là vạ. Đó cũng là người ta lầm ở cái họa phúc vậy. Đạo là cái chính quyền xưa nay. (Đạo giả cổ kim chi chính quyền 道 者 古 今 之 正 權). Bỏ cái đạo mà trong bụng tự chọn lấy, thì không biết cái họa phúc nằm ở chỗ nào », (Chính-danh. XXII). Vậy đạo là cái để cân nhắc sự phải trái hay dở. Có cái cân nhắc ấy, thì mới biến quyền biến cho thích với lẽ phải. Cái muốn và cái ghét của người ta thường không có chừng mực, cho nên sự hành-động không thể không theo đạo được. Không theo đạo, thì hay lầm về cái ghét cái muốn. Vì cái đạo có thể làm cho ta biết cái họa cái phúc, cung như cái quyền, là quả cân, có thể làm cho ta biết rõ được cái nặng cái nhẹ. Bỏ cái qnyền, thì không biết được cái nặng cái nhẹ, mà bỏ đạo, thì không biết được cái họa cái phúc, Vậy cái tình và cái dục thì bao giờ cũng có, không thể bỏ đi được, nhưng chỉ cần có cái đạo để biết cái khả và cái bất-khả thật công-chính và thật hợp-lý. Hễ cái khả và cái bất-khả mà trúng lý, thì bao nhiêu cái yêu, cái ghét, cái bỏ, cái lấy, đều không sai lầm được.

Tuân-tử bàn về tâm và đạo có nhiều điều rất hay, học-giả nên chú ý lắm. Nhưng vì ông dùng hai chữ hợp-lý theo cái nghĩa rất hẹp, thành ra cái học của ông có chỗ không lợi cho sự học-vấn. Ông nói rằng; « Phàm việc làm mà có ích cho lý, thì dựng nên, vô ích cho lý thì bỏ đi, ấy thế gọi là việc hợp đạo trung; phàm điều biết mà nói có ích cho lý thì nói, không có ích cho lý thì bỏ, ấy thế gọi là nói hợp với đạo trung. Việc làm mất cái trung gọi là việc gian, điều nói mất cái trung gọi là nói gian; việc gian, nói gian là đời trị bỏ, mà đời loạn dùng. Còn như sự thay đổi của cái đầy, cái rỗng, sự phân-cách của cái cứng, cái trắng[5], thì tai dầu suốt cũng không nghe ra được, mắt dầu sáng cũng không trông thấy được, dầu kẻ biện-sĩ cũng không nói ra được, dầu có cái biết của bậc thánh-nhân cũng chưa có thể cắt nghĩa vỡ ra được. Không biết những điều ấy cũng không hại gì cho người quân-tử, mà biết những điều ấy cũng không kém làm kẻ tiểu-nhân. Người làm thợ không biết những điều ấy cũng không cho làm cái khéo, người làm quan không biết những điều ấy cũng không hại cho làm việc trị; bậc vương công mà thích những điều ấy, thì làm loạn phép, người dân mà thích những điều ấy, thì làm loạn việc làm ». (Nho hiệu, VII).

Cái ý-kiến ấy của Tuân-tử quá thiên về sự công-dụng hẹp-hòi, vì ông nói hợp-lý, là nói hợp cái lý thường hành, còn cái lý cao-siêu thì không nói đến, thành thử những điều gì siêu-việt là bỏ hết, như thế chẳng hóa ra hiệt-hại cho tư-tưởng và triết-học lắm sao? Về sau Nho-giáo đến nỗi kém-cỏi là cũng bởi những ý-kiến như vậy.

Sự sai lầm. — Tuân-tử nói rằng: « Cái tâm của người ta như mâm nước để ngay mà không động, thì những cái cặn cái đục lắng xuống dưới đáy, cái trong cái sáng nổi lên trên, có thể soi rõ râu mày và cả những cái ngấn mặt. Đến khi có ngọn gió thổi qua, cái cặn cái đục đọng ở dưới, cái trong cái sáng loạn ở trên, thì cả cái mặt cũng không thể soi rõ được. Tâm của người ta cũng vậy, lấy cái lý mà đạo-dẫn, lấy cái khí khinh-thanh mà nuôi, khiến cho ngoại vật không làm nghiêng-lệch được, thì đủ định được điều phải trái, quyết được việc hiềm-nghi. Nếu để một vật nhỏ quyến-dũ, làm cho cái ngay chính ở ngoài thay đổi đi, cái tâm ở trong nghiêng-lệch đi, thì dầu đến cái lý thô-thiển cũng không quyết được ». (Giải-tế, XXI).

Vậy bao nhiêu những điều sai lầm đều do ở cái tâm không định mà ra, cho nên kẻ học-giả phải biết tĩnh tư, biết chuyên-nhất để có cái định. « Phàm xem xét vạn vật mà có nghi-ngờ, trong tâm không định, thì không biết rõ những vật ở ngoài. Cái trí-lự của ta không biết rõ, thì chưa thể định được cái phải và cái không phải. Người đi lúc mờ-mờ tối, trông thấy hòn đá, cho là con hổ nằm, thấy đám cây trong rừng cho là có người đi sau: cái tối mờ che mất cái sáng vậy. Người say rượu nhảy qua cái ngòi một trăm bước, cho là nhảy qua cái rãnh không đầy một bước; cúi xuống mà đi ra cửa thành, cho là cửa thành nhỏ như cái cửa buồng: rượu làm loạn cái tinh-thần vậy. Bịt mắt mà nhìn, thì trông một cái hóa hai, bịt tai mà nghe, thì nghe ù-ù hết cả: cái thế làm loạn tai mắt vậy. Đứng trên núi trông con trâu thấy nhỏ như con dê, nếu đi tìm bắt dê, thì cũng không xuống mà giắt được: cái xa che cái lớn vậy. Đứng dưới núi trông cây cao mười trượng ở trên núi thấy như chiếc đũa, nếu đi tìm chiếc đũa thì cũng không trèo lên mà bẻ được: cái cao che cái dài vậy. Nước động thì bóng rung, người ta không định rõ cái đẹp cái xấu, là vì thế nước sâu vậy. Người lòa trông không thấy sao trên trời, không thể nói là có hay không, là vì cái sáng của con mắt làm sai lầm vậy. Nếu có người lấy những lúc ấy mà định các vật, thì là người ngu ở đời vậy. Kẻ ngu kia định vật là lấy cái ngờ mà quyết cái ngờ, thì cái quyết ấy chắc không chính-đáng. Đā không chính-đáng thì sao cho khỏi sai lầm được ». (Giải-tế, XXI).

Vì ngoại vật làm nhiễu-loạn ngũ quan cho nên cái tâm không biết rõ các vật, bởi thế mới sinh ra sự sai lầm. Cái tri-thức của người ta để sai lầm như thế, cho nên kẻ học-giả phải cần có cái để làm tiêu-chuẩn mà theo. « Phàm cái mà lấy để biết cái tính của người là cái có thể lấy để biết được cái lý của vật. Lấy cái để biết cái tính của người, tìm cái khả dĩ biết cái lý của vật, mà không có cái ngờ để ngăn lại, thì suốt đời già tuổi cũng không biết hết được. Dầu có suốt được lý đến vạn ức nữa, cũng không suốt khắp cả được sự biến của muôn vật, thì cũng không khác gì người ngu. Học già đời, con đã khôn lớn, mà vẫn như người ngu và vẫn không biết điều sai lầm, như thế gọi là vọng-nhân 妄 人. Cho nên kẻ học-giả vốn học cho đến chỗ thôi. « Chỗ thôi là đâu? — Rằng: thôi ở chỗ chí túc (chỉ chư chí túc 止 諸 至 足). — Cái chí túc là cái gì? — Rằng: bậc thánh và bậc vương vậy. Thánh là bậc biết hết các vật lý vậy, vương là bậc đặt ra hết các chế-độ vậy. Hai cái hết ấy đủ làm cái phép tắc cùng cực cho thiên-hạ vậy. Cho nên kẻ học-giả lấy bậc thánh bậc vương làm thầy, theo cái phép của bậc thánh bậc vương để làm phép. Theo cái phép của bậc thánh bậc vương để tìm được cái mối; phân biệt các loài của bậc thánh bậc vương để noi theo mà bắt-chước. Theo những bậc ấy mà làm là kẻ sĩ; đồng-loại với những bậc ấy, gần được như những bậc ấy là quân-tử; biết rõ cái đạo của những bậc ấy là thánh-nhân vậy ». (Giải-tế, XXI).

Tuân-tử theo cái tôn-chỉ Nho-giáo, sùng bái các bậc thánh hiền và đế vương đời trước, cho những bậc ấy đã biết hết cái biết, làm hết việc làm rồi. Người đời sau chỉ nên lấy sự biết và việc làm của những bậc ấy để làm tiêu-chuẩn cho sự học-vấn và sự tri-thức, thì có thể tránh khỏi được nhiều điều sai lầm. Đại-khái về phương-diện ấy thì cái ý kiến của ông cùng với ý-kiến của Mạnh-tử cũng tương tự nhau. Song có một điều là cái học ấy chỉ tiện cho đường trì-thủ mà hại cho đường tiến-thủ. Vì đã cho bậc thánh bậc vương biết hết cái biết và làm hết việc làm rồi, thì cái học của người ta đến đó là giới-hạn không lên cao hơn được. Thành thử nhân trí đến đó là phải dừng lại, không tiến lên được nữa.

III. — CHÍNH-DANH HỌC

Cái học chính-danh khởi-phát ra từ Khổng tử. Ngài đã đem phu-diễn cái đại-chỉ ra ở sách Xuân-thu, và môn-đệ Ngài cũng đã ghi chép những lời ngài giảng-dụ về điều ấy ở trong sách Luận-ngữ. Về sau các học-phái đều theo cái học ấy, nhưng đến Tuân-tử mới lập thành ra một học-thuyết bày tỏ mọi lẽ rất tinh-tường ở thiên Chính-danh. Thiết-tưởng nên đem dịch những đoạn trọng-yếu ra đây để học-giả biết cái học-thuyết thời bấy giờ đã tinh lắm.

Thủa ấy nhân vì các học-giả như bọn Đặng Tích, Huệ-Thi, Công-tôn Long, thường hay lấy văn-từ mà biện-luận về danh và thực. Tuy cái học ấy có phần tinh-thâm về đường lý thuyết, nhưng đối với sự công-dụng thì ông cho là vô-ích. Vậy nên ông cực-lực bài-bác cái học ấy. Ông cho rằng sự nghị-luận trước hết phải theo một cái nguyên-lý chính-đáng trịnh-trọng, gọi là long-chính 隆 正 để làm chuẩn đích, rồi sau cứ theo cái long-chính ấy mà suy ra mọi việc cho khỏi lầm. Ông nói rằng: « Phàm nghị tất tương lập long-chính, nhiên hậu khả giã. Vô long-chính tắc thị phi bất phân, nhi biện tụng bất quyết. Cố sở văn viết: « Thiên-hạ chi đại long, thị phi chi phong giới, phận chức danh tượng chi sở khởi, vương chế thị giã ». Cố phàm ngôn, nghị, kỳ, mệnh, thị, phi, dĩ thánh vương vi sư 凡 議 必 將 立 隆 正,然 後 可 也.無 隆 正 則 是 非 不 分,而 辨 訟 不 決.故 所 聞 曰:« 天 下 之 大 隆,是 非 之 封 界,分 職 名 象 之 所 起,王 制 是 也 ».故 凡 言,議,期,命,是,非,以 聖 王 爲 師: Phàm nghị-luận thì ắt phải lập ra cái long-chính, rồi sau mới là phải. Không có cái long-chính thì phải trái không phân-biệt, mà sự biện tụng không quyết. Cho nên ta nghe rằng: « Cái đại-long (tức là cái sùng-thượng lớn của thiên-hạ), cái giới-hạn của sự phải trái, cái mà những chức phận danh tượng đều bởi đó mà sinh ra là vương-chế vậy ». Cho nên hết thảy: ngôn, nghị, kỳ, mệnh, thị, phi, đều phải lấy bậc thánh bậc vương làm thầy ». (Chính-luận, XVIII).

Có những bậc ấy làm thầy thì rồi mới biết phân biệt được cái phải cái trái. Cho nên nói rằng: « Truyện viết: Thiên-hạ hữu nhị: phi sát thị, thị sát phi. Vị hợp vương chế, dữ bất hợp vương-chế giã. Thiên-hạ hữu bất dĩ thị vi long-chính giã, nhiên nhi do hữu năng phân thị phi, trị khúc trực giả gia? 傳 曰:天 下 有 二:非 察 是,是 察 非.謂 合 王 制,與 不 合 王 制 也.天 下 有 不 以 是 爲 隆 正 也,然 而 猶 有 能 分 是 非,治 曲 直 者 邪: Sách Truyện nói rằng: Trong thiên-hạ có hai lẽ: cái trái xét cái phải, cái phải xét cái trái. Đó là nói hợp vương-chế và không hợp vương-chế vậy. Trong thiên-hạ có người không lấy cái phải làm long-chính, vậy thì còn làm sao mà phân được phải trái, trị được cong ngay? » (Giải-tế, XXI),

Cái long-chính đã định thì danh và từ đều phải theo đó mà thành. Cái danh của Tuân-tử là cái danh đã thông-hành ở trong xã-hội, dùng làm pháp lệnh của quốc-gia, không ai được thay đổi. Ông nói rằng: « Bậc vương-giả chế ra danh. Danh đã định thì sự biện-luận có cái thực. Cái đạo chế danh thi-hành ra, thì lời nói dễ hiểu, rồi cứ cẩn-thận khiến dân theo một đạo ấy không được lấy dị đoan mà thay đổi. Cho nên ngươi Tích (Đặng-Tích) dùng lời tự tiện đặt ra danh để làm loạn chính danh, khiến dân nghi-hoặc làm cho người ta có nhiều biện-tụng, ấy là kẻ đại-gian, tội cũng như tội tự tiện làm ra phù-tiết và cái đo cái lường vậy. Dân của vương-giả không dám mượn tiếng mà làm ra lời nói lạ để loạn cái chính danh. Dân ấy thật-thà dễ khiến; dễ khiến thì có công-hiệu. Dân ấy không dám mượn tiếng mà làm ra lời nói lạ để loạn cái chính danh, cho nên một lòng theo đạo, theo phép, mà kính-cẩn ở chỗ theo lệnh vậy, Như thế thì cái sự-tích của vương-giả lớn lên. Cái sự-tích của vương-giả lớn lên, cái công-hiệu thành-đạt, là cái cực-điểm của sự trị. Đó là nhờ có công của sự giữ cái danh cẩn-thận vậy. Nay bậc thánh bậc vương mất, cách giữ danh thì bỏ lười, những lời lạ khởi lên, danh với thực loạn cả, cái hình phải trái không rõ, thì dẫu kẻ lại giữ phép, kẻ nho noi theo học cũ, đều loạn cả. Nếu kẻ vương-giả lại sinh ra ở đời, thì ắt là lại theo cái danh cũ và sửa cái danh mới cho chính ». (Chính-danh, XXII).

Phép theo danh cũ là phải sở cứ vào những danh đã thành từ đời Tam-đại. « Hậu vương chi thành danh: hình danh tòng Thương, tước danh tòng Chu, văn danh tòng Lễ. Tản danh chi gia ư vạn vật giả, tắc tòng Chư-Hạ chi thành tục, khúc kỳ. Viễn phương dị tục chi hương, tắc nhân chi vi thông: 後 王 之 成 名:刑 名 從 商,爵 名 從 周,文 名 從 禮.散 名 之 加 於 萬 物 者,則 從 諸 夏 之 成 俗,曲 期.遠 方 異 俗 之 鄉,則 因 之 爲 通: Những danh đã thành của hậu vương là: hình danh theo nhà Thương, tước danh theo nhà Chu, văn danh theo kinh Lễ. Tản danh để gọi vạn vật thì theo phương-ngôn thành-tục và những lời khúc-kỳ[6] của đất Chư-Hạ. Còn những phương xa tục lạ, nhân của người ta đã dùng mà dùng cho thông ». (Chính-danh, XXII).

Thành chính danh. — Tuân-tử xét cái lẽ tại sao mà có danh, và chia ra làm ba điều: 1• Sở vị hữu danh 所 爲 有 名: Bởi sao mà có danh; — 2• Sở duyên hữu đồng dị 所 緣 有 同 異: Bởi duyên cớ gì mà có đồng dị; — 3• Chế danh chi khu yếu 制 名 之 樞 要: Cái khu-yếu để chế danh.

1• Bởi sao mà có danh. — « Cái hình của vạn vật khác nhau thì lòng người phân ly, mà hiểu lẫn cái nọ ra cái kia. Vạn vật khác nhau thì cái danh lẫn lộn; quí tiện không rõ, đồng dị không phân biệt, như thế thì cái chí ắt có cái lo không hiểu, mà việc làm ắt có cái vạ khốn phế. Cho nên kẻ trí-giả phân-biệt ra, đặt tên để chỉ rõ cái thực. Trên sáng rõ kẻ quí kẻ tiện, dưới biện-biệt cái giống nhau, cái khác nhau. Quí tiện đã phân, đồng dị đã biệt, như thế thì cái chí không có cái lo không hiểu, việc làm không có cái vạ khốn phế. Bởi thế mới có danh.

2• Bởi duyên cớ gì mà có đồng dị. — Sự đồng dị là do sự cảm-giác của thiên-quan mà ra. Thiên-quan tức là giác-quan như tai, mắt, mũi, mồm và tâm thể, Thiên-quan cảm đến, biết là đồng thì cho là đồng, biết là dị thì cho là dị. « Phàm cái đồng loại và đồng tình, thì thiên-quan hiểu là đồng, cho nên mới so sánh mà để riêng ra, xem chừng tựa như nhau mà thông, thì đặt ra một tên làm ước-danh 約 名, để hợp chung cả mà gọi. (Thí-dụ: con ngựa tuy trắng đen lớn nhỏ không đồng, nhưng nhờ có thiên-quan ta biết là đồng loại, cho nên ta đặt tên gọi là ngựa, để gọi chung cả loài). Cái hình, cái thể, cái sắc, cái vằn, thì lấy con mắt trông mà biết nó khác nhau thế nào; thanh-âm trong đục và những tiếng lạ, thì lấy tai nghe mà biết nó khác nhau thế nào; mặn nhạt, chua cay và những vị lạ, thì lấy miệng nếm mà biết nó khác nhau thế nào; hơi thơm, hôi tanh, hăng nồng và những hơi lạ, thì lấy mũi ngửi mà biết nó khác nhau thế nào; đau ngứa, lạnh nóng, nhẵn ráp, nặng nhẹ, thì lấy hình thể sờ mó, cân nhắc, mà biết nó khác nhau thế nào; lời nói, việc làm, sự mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn, thì lấy tâm mà biết nó khác nhau thế nào.

« Tâm có cái trưng-tri 徵 知. Có trưng-tri thì rồi theo tai mà biết cái tiếng, theo mắt mà biết cái hình. Song cái trưng-tri của tâm phải đợi có thiên-quan ghi nhớ lấy các loài rồi sau mới biết. Nếu ngũ quan ghi nhớ lấy các loài mà không biết, tâm triệu-tập cả các loài mà không thuyết-minh ra được, thì người ta ai cũng bảo là không biết. Bởi cái duyên-cớ ấy cho nên phân-biệt cái đồng cái dị mà đặt ra tên để cho người ta hiểu ». (Chính-danh, XXII).

Đoạn này Tuân-tử giải nghĩa rõ cái tri-thức của người ta. Ông cho rằng ta sở dĩ biết cái tính-chất của ngoại vật là nhờ có sự cảm-giác của ngũ quan. Song trừ ra những lời nói, việc làm, và những sự mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn, nếu tâm không có cái trưng-tri, thì sự cảm-giác của ngũ quan rất rối loạn, không có manh-mối gì cả. Trưng là triệu-tập, tri là biết, trưng-tri là cái năng-lực triệu-tập các vật mà ngũ quan đã cảm-thụ, để biết cho rõ. Cái trưng-tri ấy làm cho sự tri-thức của người ta có căn-cứ. Thí-dụ: Mắt trông thấy một sắc, tâm biết rõ trong các sắc, thì sắc ấy là sắc gì; tai nghe thấy một tiếng, tâm biết rõ trong các tiếng, thì tiếng ấy là tiếng gì. Cái biết ấy của tâm gọi là trưng-tri. Nhân vì tâm có cái trưng-tri, cho nên ta mới «theo tai mà biết các tiếng, theo mắt mà biết các sắc». Nếu không có trưng-tri, thì sự cảm-giác dẫu rất nhiều, nhưng vẫn không có thống-hệ và không có ý-nghĩa, thành ra không có tri-thức được.

Song phải biết rằng nếu chỉ có tâm mà không dùng ngũ quan, thì cũng không có tri-thức được. Những cái cảm-giác của ngũ quan đã cảm-thụ, là cái nguyên-liệu của sự tri-thức; không có nguyên-liệu, thì không biết được. Không những thế mà thôi, cái tâm có trưng-tri kia không thể lìa bỏ các cái quan-năng mà tự-tại độc-lập một mình được. Tâm phải cùng với các quan-năng làm thành một thể, không phân đoạn ra được. Cái tác-dụng của trưng-tri là cái tác-dụng của tâm và của các quan-năng liên hợp với nhau làm một. Thí-dụ: Thính-quan trước hết phải nghe qua tiếng chuông, rồi đến khi nghe mới biết là tiếng chuông ; khứu-quan trước hết phải ngửi qua mùi hoa sen, rồi đến khi ngửi mới biết là mùi hoa sen. Nếu trước chưa nghe qua tiếng chuông, hay chưa ngửi qua mùi hoa sen, thì dẫu nghe thấy tiếng chuông, hay ngửi thấy hơi thơm của hoa sen, cũng không biết tiếng gì hay là hơi thơm gì vậy. Bởi vậy cho nên mới nói: « Nhiên nhi trưng-tri tất tương đãi thiên-quan chi đương bạ kỳ loại, nhiên hậu khả giã 然 而 徵 知 必 將 待 天 官 之 當 薄 其 類,然 後 可 也: Vậy mà trưng-tri phải đợi có thiên-quan ghi nhớ lấy các loài đã, rồi sau mới có thể biết được ». (Chính-danh, XXII).

Chữ « đương-bạ » của Tuân-tử nói đây tức như là nói nhũng vật mà thiên-quan đã cảm-giác qua, đều có để lại cái ảnh ở trong trí-não. Trí-não đã giữ lại cái « ảnh » hơi thơm của hoa sen, rồi sau ngửi thấy một hơi thơm nào, lại tìm trong trí-não xem là hơi thơm gì, thì biết hơi thơm ấy là hơi thơm hoa sen. Cái biết là cái ta đã trông thấy hay đã nghe thấy mà nhớ lại. Vậy nên mới nói rằng: « Ngũ-quan ghi nhớ lấy các loài mà không biết, tâm triệu-tập cả các loài mà không thuyết-minh ra được, thì người ta ai cũng bảo là không biết ».

3• Cái khu-yếu để chế danh. — « Khi cái đồng cái dị đã phân-biệt rồi, sau cứ theo đó mà đặt tên. Đồng thì đặt theo đồng, dị thì đặt theo dị. Một cái đơn mà đủ hiểu thì đặt đơn, đơn không đủ hiểu thì đặt kiêm. Cái đơn và cái kiêm không tránh được nhau, thì đặt cộng, tuy cộng mà không hại vậy. Biết cái thực khác nhau, thì phải đặt cái danh khác nhau, khiến cho cái thực nào khác cũng phải có cái danh khác, không thể loạn được. Cũng như khiến cho những cái thực nào giống nhau, cũng phải có cái danh giống nhau vậy. Cho nên vạn vật tuy nhiều nhưng có khi muốn bao rộng khắp cả mà gọi gồm là « vật ». Vật là đại-cộng-danh vậy. Suy cái lý của cộng-danh ấy mà đặt cộng-danh, thì cộng-danh nọ tất có cộng-danh kia, mãi đến lúc không cộng nữa mới thôi. Có khi muốn riêng chỉ về một loại, như gọi là «điểu thú». Điểu thú là một cái đại-biệt-danh vậy. Suy cái lý của đại-biệt-danh ấy mà đặt biệt-danh, thì biệt-danh nọ tất có biệt-danh kia, mãi đến lúc không biệt được nữa mới thôi. Danh vốn không có cái phải sẵn, ta lập cái ước mà đặt ra danh, (như ở trên tầng cao xanh gọi là trời, thì người ta ai cũng theo cái ước ấy mà gọi là trời vậy). Cái ước đã định, cái tục đã thành, thì cho là phải. Khác với cái ước thì cho là không phải. Danh vốn không có cái thực sẵn, ta lập cái ước mà đặt ra thực. Cái ước định, cái tục đã thành, thì cho là thực danh. Danh vốn có cái thiện: nhanh, dễ, mà không trái, gọi là thiện danh 善 名.

« Vật có cái đồng trạng mà dị sở, có cái dị trạng mà đồng sở, thì có thể phân-biệt được. Cái trạng đồng mà cái sở dị, thì tuy khả hợp được, nhưng vẫn là hai cái thực. Cái trạng biến đi, nhưng cái thực không biệt ra, thế mà lại khác, thì gọi là hóa. Có hóa mà không biệt ra, vẫn gọi là một cái thực. (Thí-dụ: Con tằm hóa ra con kén, rồi lại hóa ra con ngài, ấy là trạng biến mà thực không biệt ra, mà lại khác, vì con tằm, con kén, con ngài đều khác nhau. Con tằm hóa đi hóa lại, nhưng vẫn là một vật, cho nên gọi là một cái thực. Ấy là việc phải kê-cứu, cho rõ cái thực và định cho rõ cái số. Đó là cái khu-yếu để chế danh vậy ». (Chính-danh, XXII).

Đại để, Tuân-tử cho danh có cái tính-chất thuộc về xã-hội, cho nên cái chủ-đích là cốt phải theo cái phải của ước-định, tục-thành. Còn việc chính danh, thì ông cho là phải dùng cái thế-lực của pháp-lệnh mà bắt người ta phải theo những danh của xã-hội đã thừa-nhận.

Cấm sự làm loạn danh và thực. — Tuân-tử lại xét những lẽ tại sao phải cấm sự làm loạn danh và thực, và chia ra làm ba điều như sau này: 1• Hoặc ư dụng danh dĩ loạn danh 惑 於 用 名 以 亂 名: lầm về sự dụng danh mà làm loạn danh; — 2• Hoặc ư dụng thực dĩ loạn danh 惑 於 用 實 以 亂 名: lầm về sự dùng cái thực mà làm loạn danh; — 3• Hoặc ư dụng danh dĩ loạn thực 惑 於 用 名 以 亂 實: lầm về sự dùng danh mà làm loạn cái thực.

1• Lầm về sự dùng danh mà làm loạn danh. —Tuân-tử bác những cái thuyết của các học-giả đương thời, như: « kiến vũ bất nhục 見 侮 不 辱: thấy người ta khinh mà không lấy làm nhục » của Tống-tử; « thánh-nhân bất ái kỷ 聖 人 不 愛 己: thánh-nhân không yêu mình » và « sát đạo phi sát nhân 殺 盗 非 殺 人: giết đưa ăn trộm-không phải là giết người » nói ở sách Mặc-biện.

Ông cho là những điều ấy lầm về cách dùng danh mà làm loạn danh. Đối với những thuyết ấy, ông nói rằng: Nghiệm cái tại sao có danh mà xem những điều ấy thật tinh-thục có dùng được không. Nếu không, thì có thể cấm được ».

2• Lầm về sự dùng cái thực mà làm loạn danh. — Trang-tử nói rằng: « Sơn uyên bình 山 淵 平: Núi với vực bằng nhau »; Tống-tử nói rằng: « Tình dục quả 情 欲 寡: Tình muốn ít »; Mặc-tử nói rằng : « Sô hoạn bất gia cam, đại chung bất gia lạc 芻 豢 不 加 甘,大 鐘 不 加 樂: Giống ăn cỏ ăn cám không ngon, tiếng chuông lớn không vui ».

Tuân-tử cho những thuyết ấy là lầm về cái thực mà làm loạn danh, cho nên nói rằng: « Nghiệm cái sở duyên ở cái đồng cái dị mà xem những điều ấy thật tinh-thục có điều lý được không. Nếu không thì có thể cấm được ».

3• Lầm về sự dùng danh mà làm loạn cái thực. — Tuân-tử cho những lời nghị-luận như: « Phi nhi yết danh hữu ngưu mã phi mã giã 非 而 謁 楹 有 牛 馬 非 馬 也 » làm loạn danh và thực. Câu này các nhà khảo-cứu vẫn không hiểu rõ nghĩa là gì. Đoạn trên thì ai cũng chịu là không hiểu, còn đoạn dưới thì có người cho là Tuân-tử bác cái thuyết của Công-tôn Long: « Bạch mã phi mã 白 馬 非 馬: Ngựa trắng không phải là ngựa ». Sắc trắng là nói về sắc, ngựa là nói về hình. Sắc không phải là hình, hình không phải là sắc. Nếu vậy mà nói: ngựa trắng không phải là ngựa, là lầm về cái danh của hình và của sắc, cho nên làm loạn mất cái thực của con ngựa trắng. Vậy nên nói rằng: « Nghiệm cái danh ước xem cái sở thụ mà trái với lời, thì có thể cấm được ».

Phàm những thuyết không chính và những lời nói lệch làm xa lìa cái chính đạo, cùng những kẻ tự tiện bày đặt ra, là không bao giờ không đồng loại với ba điều ấy. Cho nên bậc minh quân biết giữ cái danh phận cho rõ, mà không dùng sự biện-thuyết làm loạn danh ». (Chính-danh, XXII).

Cái học chính-danh của Tuân-tử tuy có nhiều điều rất tinh-tường, nhưng chỉ vì ông khuynh-hướng về mặt dùng thủ-đoạn chuyên-chế mà ngăn cấm những điều trái với sự công dụng thiển-cận, thành thử ông chủ-trương cái chính-sách chnyên-chế cho đời sau vậy.

Biện-luận. — Tuân-tử vốn là một nhà biện-thuyết, song ông cho là người biện-thuyết phải nói những điều đạo nghĩa, thì người ta mới nghe. Ông nói rằng: «Phàm lời nói mà không hợp đạo tiên-vương, không thuận lễ nghĩa, thì gọi là lời nói gian, tuy nói giỏi, người quân-tử không nghe. Noi đạo tiên-vương, thuận lễ nghĩa, thân-thiện với kẻ học-giả, thế mà không thích giảng thuyết, không vui về giảng thuyết, thì không phải là kẻ sĩ thành-thực mến điều lành vậy. Cho nên người quân-tử đối với sự đàm-thuyết, phải để cái chí mình thích về điều mình nói, và việc mình làm, yên về điều mình nói, mình vui mà nói. Bởi vậy người quân-tử tất là hay đàm-thuyết. Phàm người ta ai chẳng thích nói những điều mình đã mến chuộng mà người quân-tử lại thích hơn hết ». (Phi-tướng, V).

Người quân-tử biện-thuyết là vì mình biết có điều lành điều hay đem ra để cùng bàn với thiên-hạ, cho nên lời của người quân-tử quí như vàng như ngọc, nghe vui như tiếng chuông, tiếng trống, tiếng đàn, tiếng địch. Vậy nên người quân-tử thích nói mà không mỏi.

Nói, phải cno thích-hợp với đạo nhân-ái, chứ không thì thà nín lặng còn hơn. Tuân-tử nói rằng: « Tiểu-nhân biện, ngôn hiểm; quân-tử biện, ngôn nhân giã. Ngôn nhi phi nhân chi trung giã, tắc kỳ ngôn bất nhược kỳ mặc giã, kỳ biện bất nhược kỳ nột giã 小 人 辨,言 險;君 子 辨,言 仁 也.言 而 非 仁 之 中 也,則 其 言 不 若 其 黙 也,其 辨 不 若 其 訥 也: Kẻ tiểu-nhân biện-thuyết thì nói những điều nham-hiểm, người quân-tử biện-thuyết thì nói những điều nhân-ái. Nói mà không hợp với lẽ nhân-ái, thì nói không bằng im lặng, biện-thuyết không bằng trì-độn không nói được ». (Phi-tướng, V). Bởi vậy Tuân-tử hết sức công-kích những người dùng tà-thuyết mà biện-luận, làm loạn mất cái chính-đạo.

Cứ như ý Tuân-tử, thì nếu thiên-hạ thái-bình, người trên dùng nhân chính mà trị dân, người hiền đều có thứ vị mà dạy dân, thì không cần phải có biện-thuyết làm gì. Nhưng đã biện-thuyết, thì phải làm cho rõ những điều ngay chính, khiến người ta nghe mà theo cho đúng đạo phải. Ông nói rằng: « Đối với dân, thì lấy đạo làm một mối để cho dân theo, mà không nên cùng cộng cả các mối để làm loạn lòng dân. Cho nên bậc minh quân lấy cái quyền thế mà cai-trị dân, lấy đạo mà đạo-đạt dân, lấy mệnh-lệnh mà truyền bảo dân, lấy nghị-luận mà làm cho sáng dân, lấy hình-pháp mà cấm dân, cho nên dân hóa theo đạo như thần, dùng biện-thuyết làm gì nữa?

« Nay bậc thánh bậc vương mất, thiên-hạ loạn, lời nói gian dấy lên, người qnân-tử không có quyền thế để cai-trị dân, không có hình-pháp để cấm dân, cho nên mới có biện-thuyết. Vì cái thực không hiểu, nhiên hậu mới có cái mệnh (tức là sự đặt thành danh), cái mệnh không hiểu, nhiên hậu mới có cái kỳ (tức là tìm cách đặt danh cho người ta hiểu), cái kỳ không hiểu, nhiên hậu mới có cái thuyết, cái thuyết không hiểu, nhiên hậu mới có cái biện. Cho nên kỳ, mệnh, biện, thuyết, là cái văn sức lớn của sự dùng, và là cái đầu của vương nghiệp. Nghe cái danh mà hiểu cái thực là sự dùng của danh vậy. Nhiều danh xếp lại thành văn, là cái vẻ đẹp của danh. Cái dùng và cái vẻ đẹp đều được cả, gọi là biết danh.

« Danh là để hội các cái thực, từ là để gồm các danh của những cái thực khác nhau mà luận một cái ý, biện-thuyết là không dùng danh với thực khác nhau, để hiểu cái đạo động tĩnh, (nghĩa là trong khi biện-luận phải dùng danh trước sau cho đúng, để hiểu cho rõ sự phải trái); kỳ, mệnh là cái dụng của sự biện-thuyết; biện-thuyết là cái đạo tưởng-tượng của tâm; tâm là cái công-tể của đạo, (nghĩa là tâm gây ra đạo và làm chủ-tể của đạo: tâm giã giả, đạo chi công tể giã 心 也 者,道 之 工 宰 也); đạo là để kinh luân và điều lý việc trị. Tâm hợp với đạo, thuyết hợp với tâm, từ hợp với thuyết. Chính cái danh mà hội hợp các vật cho đúng, hình chất của vật rõ-ràng, nghe cái danh là hiểu, biện-luận cái khác nhau mà không quá, suy xét các đồng loại mà không trái. Nghe thì hợp văn, biện-luận thì hết lẽ, làm cho ngay chính cái đạo, mà biện biệt rõ cái gian, như kéo thẳng cái dây để giữ đường thẳng đường cong. Vậy nên những lời tà thuyết không thể làm loạn được, mà bách gia cũng không giấu-giếm được.

« Có cái đức sáng nghe thấu gồm cả mọi việc, mà không có cái dung mạo kiêu-căng; có cái đức tốt bao bọc tất cả mọi vật mà không có cái sắc khoe khoang; cái thuyết thi-hành ra, thì làm cho thiên-hạ chính, cái thuyết không thi-hành ra, thì làm sáng rõ cái đạo, mà lui mình ẩn ở chỗ cùng. Ấy là sự biện-thuyết của bậc thánh-nhân. Được cái tiết từ-nhượng, thuận cái lý lớn trẻ, những tên kỵ húy không gọi, lời quái gở không nói, lấy lòng nhân mà nói, lấy lòng mến học mà nghe, lấy công tâm mà biện-luận, không động về sự khen chê của nhân chúng, không lo làm cho đẹp mắt vui tai người nghe, không vị-nể cái quyền quí của kẻ quí-hiển, không ưa truyền-bá những lời thiên-lệch. Cho nên có thể ở chỗ đạo mà không hai lòng, bàn luận mà không ai cướp-lấn được, hòa mà không lưu đãng, quí cái công-chính mà rẻ cái bỉ-lậu và sự tranh dành. Ấy là sự biện-thuyết của kẻ sĩ và kẻ quân-tử vậy ». (Chính-danh, XXII).

Tuân-tử cũng như Mạnh-tử cho việc biện-thuyết là việc bất đắc dĩ, chứ không phải là cái chính đạo của thánh-nhân. Song vì thời-thế mà phải biện-thuyết. Tuy nhiên lời biện-thuyết của người quân-tử không như lời biện-thuyết của người ngu-hèn. « Lời người quân-tử nông mà tinh-tế, gần mà có thống-loại, so-le mà đều-đặn. Người quân-tử sửa cái danh cho chính, dùng lời nói cho đáng, để bộc-bạch cái chí nghĩa vậy. Danh từ của người quân-tử là cái sai-khiến của chí nghĩa, hễ cái sai-khiến ấy mà đủ thông-đạt cái lý, thì thôi. Nếu cái sai-khiến ấy mà cẩu-thả là gian vậy. Cho nên danh đủ chỉ rõ cái thực, lời đủ làm cho rõ cái gốc, thì thôi. Ngoài những điều ấy, thì gọi là nạn-thuyết, ấy là cái của người quân-tử bỏ đi, mà kẻ ngu nhặt lấy để làm cái quí của mình. Cho nên lời của kẻ ngu không có đầu đuôi mà sơ-lược, vội-vàng mà không có thống-loại, nhiều lời mà sôi nổi. Kẻ ngu dối lừa cái danh, huyễn-hoặc cái lời, mà không sâu vào đến chí nghĩa, cho nên giày xéo đến chỗ cùng tột mà không có gốc, rất khó nhọc mà không có công, tham mà không có danh. Vậy nên lời nói của kẻ trí-giả, nghĩa thì dễ biết, mà làm thì dễ chịu, giữ thì dễ vững, thành-đạt thì ắt được điều mình muốn, mà không gặp điều mình ghét. Kẻ ngu thì không thế ». (Chính-danh, XXII).

Phương-pháp luận-lý của Tuân-tử. — Cái học của Tuân-tử là cái học chủ ở sự biện-luận, cần phải dùng lý-trí mà suy-luận, chứ không giống như cái học của Khổng-tử và Mạnh-tử, vụ lấy trực-giác mẫn-nhuệ để cầu cái tâm-đắc. Bởi có nhiều điều Khổng tử và Mạnh-tủ chỉ rút lại độ vài câu, mà Tuân-tử thì nói đến bao nhiêu lời mới hết. Đó là cái yếu điểm của hai sự học khác nhau vậy.

Lối dùng trực-giác, thì tuy người thường khó hiểu, nhưng ai đã hiểu được, thì cái phần sở đắc lại uyên-áo lắm. Lối dùng lý-trí mà suy luận, thì tuy kém phần sâu xa, nhưng dễ hiểu và cái phương-pháp luận-lý lại sáng rõ hơn.

Xem cái lối biện-luận của Tuân-tử thì thấy rõ cái phương-pháp chứng-luận, cốt tìm cái long chính như đã nói ở mục Chính-danh, để làm chuẩn-đích. Ngôn luận điều gì phải lấy bậc thánh bậc vương làm thầy. Theo cái phương-pháp ấy tất là phải dùng phép diễn dịch mà suy luận, nghĩa là bất cứ điều gì cũng lấy cái chuẩn-đích đã nhận làm chứng-cứ, rồi cứ theo đó mà suy ra. Hễ hợp với cái chuẩn-đích ấy là phải, không hợp với cái chuẩn-đích ấy là trái. Tuân-tử nói rằng: « Bậc đại nho phải theo hậu-vương, tóm lễ nghĩa làm một, thống nhất chế-độ, lấy cái nông trì-thủ cái rộng, lấy đời nay trì-thủ đời xưa, lấy một mà trì-thủ vạn.... Những vật kỳ, những sự biến lạ, có khi chưa từng nghe thấy, hoặc chưa từng trông thấy, nhưng thốt nhiên khởi lên ở một chỗ nào, thì lấy thống loại mà ứng, ắt là không có điều gì ngừng-trệ, hổ thẹn, rồi mở phép ra mà đo lường, thì ám nhiên hợp như cái phù-tiết vậy ». (Nho-hiệu, VIII). Đại phàm lối luận-lý của Nho-giáo là theo phép diễn-dịch, chứ không mấy khi theo phép qui-nạp. Bởi chưng Nho-giáo thuộc về môn triết-học thuần lý, chỉ có phương-pháp ấy là thuận tiện hơn cả.

IV. — GIÁO-DỤC TRIẾT-LÝ

Tính ác. — Cái học của Tuân-tử theo cái tôn-chỉ trái với cái học của Mạnh-tử. Mạnh-tử lấy cái nghĩa « thiên mệnh chi vị tính », cho việc Trời là chí công chí chính, nên chi mới nói là tính thiện. Tuân-tử cho việc trời không quan-hệ gì đến việc người, và người lại hay làm điều ác, nên chi mới nói là tính ác. Bởi vậy về đường giáo-dục Mạnh-tử chủ ở sự « dưỡng tính », nghĩa là cái bản tính của Trời phú cho ta là thiện, ta sở dĩ làm điều bất thiện là bởi ta để vật dục làm mờ tối mất cái tính ấy, cho nên cái mục-đích của sự giáo-dục là cần phải nuôi cái tính ấy lên, thì rồi ta bỏ điều bất thiện mà làm điều thiện. Tuân-tử chủ ở sự « kiểu tính », nghĩa là cái tính của người ta là ác, ta phải tìm cách mà uốn nắn cái tính cho hợp đạo để làm điều thiện.

Trong một cái học của Nho-giáo mà thành ra hai cái thuyết tương phản nhau. Tuy vậy, nhưng cái phương-pháp giáo-dục của hai thuyết ấy cũng tương-tự nhau. Vì cả hai thuyết đều công nhận lấy nhân nghĩa lễ nhạc mà giá-ohóa. Mạnh-tử thì dùng nhân nghĩa lễ nhạc mà gây nuôi cái tính thiện của người ta vẫn có sẵn; Tuân-tử thì dùng nhân nghĩa lễ nhạc mà sửa cái tính ác cho thành tính thiện. Thành thử cái phương-pháp vẫn là một, mà cái mục-đích thì mỗi bên một khác.

Xét kỹ ra, thì cái học của Mạnh-tử có phần thắng-lợi hơn, là vì người ta thường tự tín mình thế nào, là rồi thành ra thế ấy. Mình tự tín mình là thiện, thì rồi thành ra thiện, mình tự tín mình là ác, thì rồi thành ra ác. Vậy nên ta phải nghĩ luôn đến cái phần thiện của ta, hơn là nghĩ luôn đến cái phần ác của ta. Nghĩ như thế, không phải là để tâng bốc cái trạng-thái hiện-tại của ta, nhưng cốt để cho ta khỏi thất-vọng về đường tiến-hóa. Cũng vì thế cho nên nói rằng: cái học của quân-tử phải chủ ở sự «thượng đạt». Đối với sự giáo-dục, không gì lợi cho sự tiến-hóa bằng cái chủ-nghĩa lạc-quan, nó làm cho người ta có cái lòng tự tín ở bản-thể của mình, và không gì hại bằng cái chủ-nghĩa bi-quan, nó làm mất cái lòng tự tín ấy. Cái lý-tưởng cực cao là để khiến người ta có thể lúc nào cũng cho mình vốn là hoàn-toàn, thì rồi mới cố gắng mà tiến lên đến chỗ thật hoàn-toàn, chứ đã cho mình là hèn-hạ tàn-ác, thì còn tiến-hóa làm sao được. Thành thử cái thuyết tính ác của Tuân-tử vẫn khiên cưỡng, bởi thế hậu-nho bỏ cái thuyết ấy mà theo cái thuyết tính thiện của Mạnh-tử, tưởng cũng đã nghĩ xác lý lắm vậy.

Nay ta xét xem tại sao mà Tuân-tử lại nói là tính ác. Ông nói ngay đầu thiên Tính-ác rằng : « Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả ngụy giã 人 之 性 惡,其 善 者 僞 也: Tính của người là ác, những điều thiện là người làm ra ». Chữ ngụy viết bên chữ nhân và bên chữ vi 爲, là chữ hội-ý, có nghĩa nói việc người làm, chứ không phải nghĩa thường ta vẫn học ngụy là dối. Tuân-tử lại cắt nghĩa rõ chữ tính và chữ ngụy. Ông nói rằng: « Bất khả học, bất khả sự, nhi tại nhân giả, vị chi tính. Khả học nhi năng, khả sự nhi thành chi tại nhân giả, vị chi ngụy 不 可 學,不 可 事,而 在 人 者,謂 之 性.可 學 而 能,可 事 而 成 之 在 人 者,謂 之 僞: Không học mà hay, không làm mà thành ở người ta, gọi là tính. Có học mới hay, có làm mới thành ở người ta gọi là ngụy ». Ông lại nói ở thiên Chính-danh rằng: « Sinh ra mà có sẵn gọi là tính. Tính là do cái hòa khí xung-hợp mà sinh ra, tinh linh hợp với ngoại vật, cảm ứng lẫn nhau, không bị dịch-sử mà tự nhiên. Sự yêu, ghét, mừng, giận, thương, vui, của tính gọi là tình. Tình thì không biết thế nào là cùng, cho nên phải có tâm để chọn cái nên, cái không nên mà làm, gọi là tư-. Tâm tư-lự để khiến người ta hành-động, gọi là ngụy. Có tư-lự lâu ngày, có học-tập nhiều, thì sau mới thành, nghĩa là mới uốn nắn được cái bản tính, thế gọi là ngụy ».

Nói tóm lại, tính là tự nhiên của Trời sinh ra, ngụy là cái phải dùng nhân-lực mà làm ra. Cho nên mới nói rằng: « Tính giả bản thủy tài phác giã, ngụy giả văn lý long thịnh giã 性 者 本 始 材 樸 也,僞 者 文 理 隆 盛 也: Tính là cái bản thủy sẵn có cái bản-năng chất-phác, ngụy là cái văn lý long-thịnh vậy ». (Lệ-luận, XIX).

Xem câu « Tính là do cái hòa khí xung-hợp mà ra », thì hiểu rõ là Tuân-tử nói cái tính khí-chất, không phải như Mạnh-tử nói cái tính là phần thiên lý của Trời phú cho người. Cái nghĩa chữ tính của mỗi người một khác, cho nên cái học-thuyết cũng khác nhau vậy.

Tuân-tử lấy lẽ gì mà cho là tính ác? Ông nói rằng: « Nay cái tính của người ta sinh ra là có hiếu lợi, thuận cái tính ấy thì thành ra sự tranh-đoạt, mà sự từ-nhượng không có vậy; sinh ra là có đố-kỵ, thuận cái tính ấy thì thành ra tàn tặc, mà lòng trung tín không có vậy; sinh ra là có lòng muốn của, tai mắt có cái thích về thanh sắc, thuận cái tính ấy là thành ra dâm-loạn, mà lễ-nghĩa văn-lý không có vậy. Thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta, ắt là sinh ra sự tranh-đoạt, hợp với việc phạm phận, loạn ly mà thành ra tàn-bạo. Cho nên phải có thầy, có phép để hóa đi, có lễ nghĩa để đạo-dẫn, nhiên hậu mới có từ-nhượng hợp văn-lý và thành ra trị. Lấy thế mà xem, thì cái tính của người ta ác là rõ lắm, mà cái thiện của tính là người ta làm ra vậy. Cho nên cây gỗ cong phải đợi có cái khuôn uốn, rồi hơ nóng lên mà uốn mới thẳng được. Một miếng sắt, miếng thép, phải đợi có mài dũa mới sắc. Cái tính ác của người ta cũng vậy, ắt phải đợi có thầy, có phép dạy ảo, rồi sau mới có lễ nghĩa và mới là trị. Người ta không có thầy, có phép, thì thiên-lệch nguy-hiểm mà không chính, không có lễ nghĩa thì bội loạn mà không trị. Đời xưa thánh-nhân lấy cái tính của người ta ác, lấy sự thiên-lệch nguy-hiểm mà không chính, bội-loạn mà không trị, bởi thế mới khởi xướng lên lễ nghĩa và chế-định ra pháp-độ, để kiểu-sức cái tính tình của người ta mà chính lại, để nuôi hóa cái tính tình của người ta mà đạo-dẫn, khiến cho theo cái trị, hợp cái đạo vậy. Người ta ai hóa theo thầy, theo phép, tích-tập văn-học theo lễ nghĩa là người quân-tử; buông cái tính tình để yên sự nom dòm mà trái lễ nghĩa là kẻ tiểu-nhân. Lấy thế mà xem, thì cái tính ác của người ta rõ lắm, mà cái thiện là người ta làm ra vậy ».

Trong thiên Tính-ác, Tuân-tử viện các lẽ để bác cái thuyết tính thiện của Mạnh-tử. Ông cho rằng vì cái tính vốn ác cho nên thánh-nhân mới đặt ra nhân nghĩa lễ phép để kiểu-sức cái tính cho thiện, chứ nếu tính đã thiện, thì còn cần gì đến bậc thánh bậc vương và nhân nghĩa lễ phép làm gì nữa.

« Phàm người ta muốn làm điều thiện là vì cái tính ác vậy. Hễ mỏng là muốn dày, xấu là muốn đẹp, hẹp là muốn rộng, nghèo là muốn giàu, hèn muốn sang. Nếu không có ở trong là ắt phải tìm ở ngoài... Cái tính của người ta ắt vốn không có lễ nghĩa, cho nên phải cưỡng mà học để cho có lễ nghĩa, tính không biết lễ nghĩa, cho nên phải tư-lự để tìm cho biết lễ nghĩa. Vậy nên cứ theo tính, thì người ta không có lễ nghĩa. Người mà không có lễ nghĩa thì loạn, không biết lễ nghĩa thì trái ». (Tính-ác, XXIII).

Tuân-tử lại bác cái lương-tri lương-năng. Ông cho là người ta ai cũng có cái « khả dĩ tri chi chất, khả dĩ năng chi cụ 可 以 知 之 質,可 以 能 之 具: cái chất khả lấy mà biết, cái cụ-thể khả lấy mà hay ». (Tính-ác, XXIII). Song cái chất khả dĩ tri và cụ-thể khả dī năng ấy vị tất đã biết được và vị tất đã hay được. Bởi vậy ông nói rằng: « Kẻ làm nghề, làm ruộng, làm thợ, đi buôn, chưa từng đã không có người nọ khả dĩ làm được việc người kia, song chưa có người nọ làm được việc người kia. Xem thế thì biết cái khả dĩ vi, vị tất đã năng được; tuy không năng được nhưng không hại cho cái khả dĩ vi. Vậy thì năng với bất năng cùng với khảbất khả khác nhau xa lắm vậy ». (Tính-ác, XXIII). Thí-dụ như mắt khả dĩ trông thấy, tai khả dĩ nghe thấy, song cái khả dĩ trông thấy ấy, vị tất đã trông thấy rõ, cái khả dĩ nghe thấy ấy, vị tất đã nghe thấy suốt. Như vậy thì lương-tri vị tất đã biết được, mà lương-năng vị tất đã hay được.

Cứ theo cái thuyết ấy, thì Tuân-tử cho lương-tri lương-năng là cái khả dĩ tri và cái khả dĩ năng, chứ không phải là trinăng. Nhưng thiết tưởng cái ý-kiến ấy không đúng, vì xét kỹ ra người ta vẫn có cái lương-tri lương-năng, quí hơn cái tri và cái năng thường. Nhờ có cái lương-tri, ta mới hiểu được những điều cao-xa siêu-việt, và có lương-năng, ta mới làm được những việc khó-khăn một cách rất mau-mắn. Song vì cái học của Tuân-tử chỉ chuyên dùng lý-trí cho nên ông không nhận có lương-tri, lương-năng. Đó là một điều sở đoản trong cái học của Tuân-tử vậy.

Nói rút lại, Tuân-tử nhất quyết cho tính tự-nhiên là ác. Tuy nhiên, cái tính ấy có thể làm thành ra thiện được. Cho nên về đường giáo-dục ông rất chú-ý về sự kiểu-tính.

Giáo-dục. — Cái tính đã ác, thì cái chủ-đích sự giáo-dục là cần phải uốn nắn cái tính lại cho thiện. Tuân-tử nói rằng: « Tính là cái ta không thể làm ra được, nhưng có thể hóa đi được. Tính là không phải tự-nhiên ta có được, nhưng có thể làm cho có được. Chú ý làm-lụng, tập thành thói quen để hóa cái tính, gồm cả làm một mà không hại, để thành ra cái tích-tập. Cái tập-tục đổi cái chí, yên lâu đổi cái chất (Tập tục di chí, an cửu di chất 習 俗 移 志,安 久 移 質), gồm cả làm một mà không hại, thì chóng đạt đến thần minh, tham dự với trời đất vậy... Người thường mà tích thiện và toàn hết được điều thiện, thì gọi là thánh-nhân. Ai có cầu thì rồi mới được, có làm thì rồi mới nên, có tích mãi lên thì rồi mới cao, có hết cái thiện thì rồi mới là thánh, cho nên thánh-nhân là người tích nhiều đức-hạnh. Người ta tích việc cày cấy mà làm kẻ nông-phu, tích việc đục đẽo mà làm người thợ, tích hàng-hóa mà làm người buôn bán, tích lễ nghĩa mà làm người quân-tử. Con người làm thợ không đứa nào là không nối nghề của cha, mà dân trong nước không ai là không yên quen lối mặc của mình. Ở nước Sở mặc theo lối nước Sở, ở nước Việt mặc theo lối nước Việt, ở đất Trung-hạ mặc theo lối Trung-hạ, ấy không phải là thiên tính, nhưng là thuận theo cái tích-tập mà khiến ra như vậy. Cho nên người nào biết cẩn sự chú-thố, thận cái tập-tục, làm vĩ-đại cái tích-tập, thì làm quân-tử; buông cái tính tình mà không đủ học-vấn, thì làm tiểu-nhân. Làm quân-tử thì thường yên và vinh, làm tiểu-nhân thì thường nguy và nhục. Phàm người ta ai chẳng muốn yên và vinh mà ghét nguy và nhục, song chỉ có quân-tử mới làm được những điều mình thích, tiểu-nhân thì càng ngày càng gây thêm những điều mình ghét » (Nho-hiệu, VIII).

Sự giáo-dục của quân-tử chủ ở sự tích 積, nghĩa là góp thành cái thói quen, cứ làm mãi điều thiện, để sửa đổi cái tính ác tự-nhiên của người ta. Lối giáo-dục ấy nếu biết cách dùng, thì không phải là không có giá-trị, nhưng về sau dùng bậy, thành ra lối áp-chế đè-nén, làm mất cái nhân-cách tự-chủ của con người ta, và thành một cái lưu-tệ trong sự giáo-dục của người Á-đông ta tự xưa đến nay vậy.

Sư pháp. — Bởi sự giáo-dục phải đè-nén để đổi cái tính ác, cho nên Tuân-tử rất trọng thầy và phép. Ông nói rằng: « Người không có thầy, không có phép mà biết, thì tất đi ăn-trộm, dũng mãnh thì tất đi làm giặc, tài giỏi thì làm loạn, xem xét thì làm những điều quái-lạ, biện-luận thì nói những điều hoang-đường giả-dối. Người có thầy có phép mà biết, thì chóng thông; dũng mãnh thì chóng có oai; tải giỏi thì chóng thành; xem xét thì chóng biết hết lý; biện-luận thì chóng biết phải trái. Cho nên có thầy, có phép, là cái của quí của người ta; không có thầy, không có phép, là cái vạ lớn của người ta vậy. Người mà không có thầy, không có phép, thì trọng cái tính; có thầy có phép, thì trọng cái tích-tập. Theo thầy và theo phép là sở đắc ở cái tình, mà không phải sở thụ ở cái tính. Tính không đủ để độc-lập mà trị » (Nho-hiệu, VIII).

Sự giáo-dục của Tuân-tử là cần phải có thầy và có phép, để uốn nắn cái tính người ta, mà cái hiệu-quả là cốt ở tích-tập, nghĩa là phải học tập nhiều thì mới hay được.

Học. — Tuân-tử cho sự học là sự rất cần cho người ta. Có học mới nên người ngay lành được. Cho nên nói rằng: « Nhân chi ư văn học giã, do ngọc chi ư trác ma giã 人 之 於 文 學 也,猶 玉 之 於 琢 磨 也: Người ta đối với văn-học cũng như hòn ngọc đối với sự mài dũa vậy » (Đại-lược, XXVII) Song học thì phải thế nào? Học phải theo cái khuôn phép của thánh hiền mà luyện tập lấy mình. Tuân-tử nói rằng: « Học không phải theo cái của mình có (học bất khả dĩ kỷ 學 不 可 以 己). Màu xanh lấy ở màu chàm ra, mà hơn màu chàm; váng đông bởi nước thành ra, mà lạnh hơn nước. Cây gỗ lúc thẳng theo đúng cái dây, đem uốn làm bánh xe, thì cái cong theo đúng cái thước tròn, dù có đem phơi ra cũng không thẳng lại được nữa, vì cái uốn khiến ra như thế. Cho nên cây gỗ theo dây thì thẳng, loài kim đã mài là sắc, người quân-tử học rộng mà một ngày ba lần xét lại mình, thì biết rõ mà làm việc không có lầm vậy ». (Khuyến-học, I). Ông cho sự học của người ta là cốt làm cho mất cái ác của mình đi để thành ra thiện. Làm được như thế, là nhờ có cái ngoài giúp vào mới có công-hiệu, chứ cứ lấy cái của mình có sẵn thì không bao giờ nên được. « Quân-tử sinh phi dị giã, thiện giả ư vật giã 君 子 生 非 異 也,善 假 於 物 也: Người quân-tử không phải là sinh ra khác người ta, vì khéo mượn cái vật ở ngoài vậy ». (Khuyến-học, I). Mượn cái ngoài để học tập mãi mãi lâu ngày ắt là thành công. « Không góp từng nửa bước, không đi đến nghìn dặm được, không góp những ngòi nhỏ, không nên được sông lớn, bể cả. Thành công là ở sự làm luôn luôn mà không bỏ. Khắc chạm mà bỏ, thì dẫu gỗ mục cũng không đục được, khắc chạm mà không bỏ, thì dẫu vàng đá cũng làm được » (Khuyến-học, I). Vậy sự học của người ta phải chuyên-nhất, thì rồi mới rèn đúc ra được cái nhân-cách tôn-quí.

Cái học của người quân-tử không phải là cái học ở cửa miệng, phải học cho hóa cả cái tâm-thần, biến cả cái bản-tính xấu của mình, khiến cho sự ngôn-ngữ, việc hành-động đều có thể làm khuôn làm phép cho người ta theo được. Cái học ấy khác với cái học của tiểu-nhân, chỉ vụ lấy sự tai nghe, miệng nói mà thôi, chứ không có ích gì cho tâm-thần. Cho nên nói rằng: « Quân-tử chi học giã, nhập hồ nhĩ, trứ hồ tâm, bố hồ tứ thể, hình hồ động tĩnh. suyễn nhi ngôn, nhuyễn nhi động, nhất khả dĩ vi pháp tắc; tiểu-nhân chi học giã, nhập hồ nhĩ, xuất hồ khẩu: khẩu nhĩ chi gian tắc tứ thốn hỹ, hạt túc dĩ mĩ thất xích chi khu tai? 君 子 之 學 也,入 乎 耳,著 乎 心,布 乎 四 體,形 乎 動 靜,端[7] 而 言,蝡 而 動,一 可 以 爲 法 則;小 人 之 學 也,入 乎 耳,出 乎 口:口 耳 之 間 則 四 寸 耳,曷 足 以 美 七 尺 之 軀 哉?Sự học của người quân-tử, vào ở tai, rõ ra ở tâm, hiện ra ở tay chân, thở ra mà nói, cụ-cựa mà động, đều là có thể lấy làm phép tắc; sự học của kẻ tiểu-nhân, vào ở tai ra ở miệng; khoảng từ tai đến miệng có bốn tấc, sao đủ làm cho đẹp cái thân bảy thước được? » (Khuyến-học, I). Thật kẻ học-giả là học để sửa mình cho ngay lành, chứ không phải là học để khoe với người và để làm những điều giả-dối, phi nhân phi nghĩa. « Cổ chi học giả vị kỷ, kim chi học giả vị nhân. Quân-tử chi học giã, dĩ mĩ kỳ thân; tiểu-nhân chi học giã, dĩ vi cầm độc 古 之 學 者 爲 己,今 之 學 者 爲 人.君 子 之 學 也,以 美 其 身;小 人 之 學 也,以 爲 禽 犢: Kẻ học-giả đời xưa là vị mình, kẻ học-giả đời nay là vị người. Sự học của quân-tử là để làm cho đẹp cái thân mình; sự học của tiểu-nhân là để làm giống chim muông ». (Khuyến-học, I).

Học thì phải biết, biết thì phải làm, chứ không phải là học cho biết để lấy cái biết của mình mà lừa dối thiên-hạ, rồi chính mình lại không làm những điều mình biết. Tuân-tử cho sự biết với sự làm là một, nghĩa là biết mà làm được mới thực là biết. Nếu biết mà không làm được, thì sự biết ấy không phải là thật biết. Ông nói rằng: « Bất văn bất nhược văn chi, văn chi bất nhược kiến chi, kiến chi bất nhược tri chi, tri chi bất nhược hành chi. Học chí ư hành chi nhi chỉ hỹ. Hành chi minh giã, minh chi vi thánh-nhân. Thánh-nhân giã giả bản nhân nghĩa, đương thị phi, tề ngôn hạnh, bất thất hào ly. Vô tha đạo yên, dĩ hồ hành chi hỹ 不 聞 不 若 聞 之,聞 之 不 若 見 之,見 之 不 若 知 之,知 之 不 若 行 之.學 至 於 行 之 而 止 矣.行 之 明 也,明 之 爲 聖 人.聖 人 也 者 本 仁 義,當 是 非,齊 言 行,不 失 毫 釐.無 他 道 焉,已 乎 行 之 矣: Chẳng nghe chẳng bằng nghe, nghe chẳng bằng trông thấy, trông thấy chẳng bằng biết rõ, biết rõ chẳng bằng làm được. Học đến làm được mới thôi. Làm được là sáng-suốt mọi việc, sáng-suốt mọi việc thì làm thánh-nhân. Thánh-nhân là người lấy nhân nghĩa làm gốc, định rõ phải trái, lời nói với việc làm như nhau, không sai lầm một hào một ly nào. Học đến làm được mới thôi. Không có đạo nào khác nữa. » (Nho-hiệu, VIII). Tuân-tử cho cái biết có làm được, mới thật là biết. Về sau đến đời nhà Minh, có cái thuyết « tri hành hợp nhất » của Vương Dương-minh thật là khởi phát từ đó vậy.

Tuân-tử cho sự học có đầu có cuối. Học cho đến bậc người hoàn-toàn, cho hết đời mới thôi. « Sự học khởi đầu ở đâu, cuối cùng ở đâu? — Rằng: Cái thuật thì khởi đầu đọc các kinh, cuối cùng thì đọc lễ; cái nghĩa thì khởi đầu làm người học-trò, cuối cùng làm bậc thánh-nhân. Lòng thành-thực tích được nhiều, việc làm lâu thì mới thấu tới cái học. Học đến chết thì sau mới thôi. Cho nên cái thuật học thì có cùng, mà cái nghĩa sự học thì không có dây phút nào bỏ được vậy. Làm điều ấy là người, bỏ điều ấy là cầm-thú vậy » (Khuyến-học, I).

Sĩ và quân-tử. — Đã là người đi học, tức là kẻ sĩ, thì phải có cái tư-cách kẻ sĩ, và phải biết cái đức-hạnh của người quân-tử là thế nào. Kẻ sĩ phải lo sửa mình cho ngay chính, chứ không cần phải theo thói thường. « Phù sĩ dục độc tu kỳ thân, bất dĩ đắc tội vu tị tục chi nhân giã 夫 士 欲 獨 修 其 身,不 以 得 罪 于 比 俗 之 人 也: Kẻ học-trò muốn một mình sửa lấy một mình, không lo có tội với người thường-tục. » (Tu-thân, II). Kẻ sĩ cũng có năm bảy kẻ sĩ: Có kẻ thông-sĩ, có kẻ công-sĩ, có kẻ trực-sĩ, có kẻ xác-sĩ, có kẻ tiểu-nhân. Trên thì có thể làm cho tôn-trọng bậc quân-vương, dưới thì có thể yên dân, vật đến thì tiếp ứng được, sự dấy lên thì biện luận được, như thế là bậc thông-sĩ. Không theo kẻ đưới mà làm tối bậc trên. không đồng ý với bậc trên mà ghen-ghét kẻ dưới, lấy cái trung mà phân-tranh, không lấy cái tư mà hại cái trung, như thế gọi là bậc công-sĩ. Cái hay của mình dẫu bậc trên không biết, cũng không oán giận mà làm trái đấng quân-vương; cái dở của mình, dẫu bậc trên không biết, cũng không nhận cái thưởng, không khoe cái hay của mình, không che cái dở của mình, cứ lấy tình thật mà làm hết cái lòng trung-trực, như thế gọi là kẻ trực-sĩ. Lời nói ngày thường là phải tin, việc làm ngày thường là phải cẩn-thận, sợ theo cái lưu-tục mà cũng không dám riêng một mình làm quá ra là người quân-tử, như thế là kẻ xác-sĩ. Nói không thường tin, làm không thường chính, chỉ biết có lợi mà thôi, hễ có lợi là khuynh-hướng theo, như thế là kẻ tiểu-nhân vậy » (Bất-cấu, III). Kẻ sĩ dẫu thế nào cũng không bỏ nghĩa mà theo lợi. « Thân lao nhi tâm an, vi chi; lợi thiểu nhi nghĩa đa, vi chi; sự loạn quân nhi thông, bất như sự cùng quân nhi thuận yên 身 勞 而 心 安,爲 之;利 少 而 義 多,爲 之;事 亂 君 而 通,不 如 事 窮 君 而 順 焉: Mình khó nhọc mà bụng yên, thì cứ làm; lợi ít mà nghĩa nhiều, thì cứ làm; thờ ông loạn-quân mà thông đạt, không bằng thờ ông cùng-quân mà thuận hành cái đạo ». (Tu-thân, II). Kẻ sĩ và người quân-tử thì lúc nào cũng lo sửa đạo, chứ không lo cái nghèo đói. « Sĩ quân-tử bất vị bần-cùng đãi hồ đạo 士 君 子 不 爲 貧 窮 怠 乎 道: Kẻ sĩ và người quân-tử không vì nghèo cùng mà lười bỏ cái đạo » (Tu-thân, II).

Người quân-tử và kẻ tiểu-nhân khác nhau là thế nào? « Quân-tử dịch vật, tiểu-nhân dịch ư vật 君 子 役 物,小 人 役 於 物: Người quân-tử dịch-sử các vật, kẻ tiểu-nhân để các vật dịch-sử mình » (Tu-thân, II). Người đã để ngoại vật dịch-sử được, thì thành ra mất tự-chủ và chỉ làm nô-lệ ngoại-vật. — « Quân-tử đại tâm tắc thiên nhi đạo, tiểu-tâm tắc úy nghĩa nhi tiết... Tiểu-nhân tắc bất nhiên, đại tâm tắc mạn nhi bạo, tiểu tâm tắc dâm nhi khuynh 君 子 大 心 則 天 而 道,小 心 則 畏 義 而 節… 小 人 則 不 然,大 心 則 慢 而 暴,小 心 則 淫 而 傾[8]: Người quân-tử mở rộng cái tâm ra thì hợp với Trời mà thuận đạo, thu cái tâm nhỏ lại thì lo sợ điều nghĩa mà có tiết-độ... Kẻ tiểu-nhân thì không thế, mở rộng cái tâm ra thì ngạo-mạn mà bạo-ngược, thu nhỏ cái tâm lại thì dâm-đãng mà nghiêng-lệch » (Bất-cấu, III). Tuân-tử nói rằng: « Phàm người ta có một cái như nhau, là đói thì muốn ăn, rét thì muốn ấm, nhọc thì muốn nghỉ, thích cái lợi mà ghét cái hại, ấy là cái mà người ta ai sinh ra cũng có cả ». (Vinh-nhục, IV). Nhưng chỉ khác nhau có cái đạo-lý. Hễ người biết ăn-ở cho phải đạo lý là quân-tử, mà ăn-ở trái với đạo lý là tiểu-nhân, cho nên nói rằng: « Tài, tính, trí, năng, quân-tử tiểu-nhân nhất giã. Hiếu vinh, ố nhục, hiếu lợi, ố hại, thị quân-tử tiểu-nhân chi sở đồng giã, nhược kỳ sở dĩ cầu chi chi đạo tắc dị hỹ 材,性,知,能,君 子 小 人 一 也.好 榮,惡 辱,好 利,惡 害,是 君 子 小 人 之 所 同 也,若 其 所 以 求 之 之 道 則 異 矣: Cái bản-năng, cái tính, cái khôn, cái giỏi, thì quân-tử tiểu-nhân cùng là một cả. Muốn cái vinh, ghét cái nhục, muốn cái lợi, ghét cái hại, ấy là quân-tử và tiểu-nhân giống như nhau cả, chỉ khác có cái lối theo cầu những điều đó mà thôi ». Ông lại giải rõ cái lối khác nhau là thế nào: « Kẻ tiểu-nhân hay làm những điều không thật mà muốn người ta tin mình, hay làm những điều gian-trá mà muốn người ta thân mình, làm những việc cầm-thú mà muốn người ta cho mình là phải, nghĩ thì khó biết, làm thì khó yên, giữ thì khó vững, thành-đạt thì ắt không được cái mình muốn mà ắt gặp cái mình ghét. Người qnân-tử có tin rồi mới muốn người ta tin mình; ngay thẳng rồi mới muốn người ta thân mình; sửa cái trung-chính, trị sự biện-biệt, rồi mới muốn người ta cho mình là phải; nghĩ thì dễ biết, làm thì dễ yên, giữ thì dễ vững, thành-đạt ắt được cái mình muốn, không gặp cái mình ghét, vậy nên cùng thì không ai ẩn-tế được, thông thì rất sáng rõ, thân chết mà cái danh càng minh-bạch. Kẻ tiểu-nhân thì không lúc nào là không vươn cổ nhón chân mà muốn rằng mình khôn ngoan tài giỏi hơn người, chứ không biết rằng cái mình có và cái người ta có, không khác gì nhau, chỉ khác ở sự chú-thố của người quân-tử thì chính-đáng, mà sự chú-thố của mình thì quá-độ. Xét rõ cái trí năng của kẻ tiểu-nhân thì biết có thừa khả làm được việc của người quân-tử làm. Ví như người nước Việt yêu cái tục nước Việt, người nước Sở yêu cái tục nước Sở, người quân-tử yêu ở việc ngay chính, ấy không phải là bởi trí, năng, tài, tính, nhưng bởi sự chú-thố tập-tục khác nhau vậy.... Cố quân-tử đạo kỳ thường, nhi tiểu-nhân đạo kỳ quái 故 君 子 道 其 常,而 小 人 道 其 怪: Cho nên người quân-tử nói cái thường mà kẻ tiểu-nhân nói cái quái lạ » (Vinh-nhục, IV).

« Người quân-tử không có tước mà quí, không có lộc mà giàu, không nói mà tin, không giận mà có oai, ở chỗ cùng khổ mà vinh, ở một mình mà vui, há lại không phải là cái tình chí-tôn, chí-phú, chí-trọng, chí-nghiêm, đều tích cả ở đó hay sao?... Cho nên người quân-tử chỉ vụ sửa lấy bề trong mà nhường ở bề ngoài, vụ tích đức ở thân mình, mà xử lấy theo đạo. Như thế thì cái danh quí khởi lên như mặt trời mặt trăng, tiếng thiên-hạ hưởng-ứng như sấm sét » (Nho-hiệu VIII). Vậy người quân-tử chỉ lo sửa mình mà làm điều thiện, chứ không cầu người ta quí mình, tin mình và dùng mình. « Người quân-tử có thể làm cho mình khả quí, không thể khiến người ta tất phải quí mình; có thể làm cho mình khả tin, không có thể khiến người ta tất phải tin mình; có thể làm cho mình khả dùng được, không có thể khiến người ta tất phải dùng mình. (Quân-tử năng vi khả quí, bất năng sử nhân tất quí kỷ; năng vi khả tín, bất năng sử nhân tất tín kỷ; năng vi khả dụng, bất năng sử nhân tất dụng kỷ 君 子 能 爲 可 貴,不 能 使 人 必 貴 己;能 爲 可 信,不 能 使 人 必 信 己;能 爲 可 用,不 能 使 人 必 用 己). Cho nên người quân-tử thẹn không sửa mình, không thẹn vì người ta làm ô-uế mình, thẹn không tin mình được, không thẹn vì người ta không tin mình; thẹn mình không giỏi, không thẹn vì người ta không dùng mình. Thế mới không bị lời khen quyến-dụ, không sợ lời chê bai, cứ theo đạo mà đi, đoan-nhiên giữ mình cho ngay chính, không để ngoại-vật làm nghiêng lệch. Thế gọi là thật quân-tử » (Phi-thập-nhị-tử, VI).

Người quân-tử sở dĩ hơn người là lúc nào cũng biết theo cái công nghĩa mà không theo cái tư-dục. «Quân-tử chi năng dĩ công nghĩa thắng tư dục giã 君 子 之 能 以 公 義 勝 私 欲 也: Người quân tử có thể lấy công nghĩa mà thắng được cái tư dục vậy » (Tu-thân, II). Còn việc cùng hay thông là cái mệnh, nếu ta biết « lạc thiên tri mệnh » thì dẫu có khốn-cùng thế nào, trong lòng cũng vui làm việc đạo nghĩa.

Làm người quân-tử thường chỉ được sướng ở trong bụng, chứ không phải là bao giờ cũng phú quý vinh hoa. Những người trung nghĩa xưa nay đã mấy ai được thỏa chí bao giờ? Tuân-tử dẫn lời Khổng-tử nói với thầy Tử-Lộ, mà thích rõ cái cảnh-ngộ của người quân-tử: « Phù ngộ, bất ngộ giả, thời giã. Hiền, bất tiếu giả, tài giã. Quân-tử bác học thâm mưu, bất ngộ thời giả đa hỹ 夫 遇,不 遇 者,時 也.賢,不 肖 者,材 也.君 子 博 學 深 謀,不 遇 時 者 多 矣: Gặp hay không gặp là thời vậy. Giỏi hay không giỏi là cái bản-năng vậy. Người quân-tử học rộng mưu sâu, mà không gặp thời, nhiều lắm vậy » (Hữu-tọa, XXVIII). Vậy người đi học là cốt gây lấy cái nhân cách cho được tự quí tự cao, còn cái cảnh-ngộ bề ngoài, thì được phận nào hay phận ấy, không nên lấy việc ấy làm quan-ngại. Người quân-tử chỉ cốt lúc nào cũng lo sửa mình và phải làm những điều nhân nghĩa, trí dũng, trung hiếu. để cho trọn cái danh nghĩa làm người ở đời. Người tiểu-nhân thì không thế, trong bụng giả dối mà chỉ cầu lấy được cái danh-vọng ở ngoài. « Tiểu-nhân bất thành ư nội, nhi cầu chi ư ngoại 小 人 不 誠 於 內,而 求 之 於 外: Kẻ tiểu-nhân không thành-thực ở trong bụng mà cầu cái ở ngoài » (Đại-lược, XXVII). Vậy nên kẻ tiểu-nhân dẫu khôn khéo thế nào cũng vẫn là tiểu-nhân

Nhân nghĩa. — Tuân-tử theo tôn-chỉ của Nho-giáo lấy nhân nghĩa, trí dũng, trung hiếu, mà dạy người ta. Song Khổng-tử thì chủ lấy chữ nhân nói gồm cả cái trực-giác mẫn-nhuệ và lòng từ-ái suốt đến vạn-vật mà vẫn giữ cái trật-tự phân-minh; Tuân-tử thì chỉ hiểu cái nghĩa hẹp chữ nhânái mà thôi, tức là cái nghĩa chữ nhân của người ta thường dùng vậy. Ông nói ở thiên Đại-lược rằng: « Nhân, ái giã..., nghĩa, lý giã 仁,愛也… 義,理 也: Nhân là yêu vậy... nghĩa là lý vậy; và nói ở thiên Nghị-binh rằng: « Nhân giả ái nhân, nghĩa giả tuần lý 仁 者 愛 人,義 者 循 理: Nhân là yêu người, nghĩa là theo lý ». Vậy chữ nhân của Tuân-tử chỉ là một cái đức-tính tốt nói về cái lòng yêu thương người mà thôi. Tuân-tử thường hay đem chữ nghĩa mà đối với chữ lợi. Ông cho nghĩa với lợi thì ai cũng muốn, nhưng người quân-tử thì biết biện-biệt cái khinh cái trọng, cho nên sự hành-động bao giờ cũng hợp đạo-lý « Nghĩa dữ lợi giả, nhân chi sở lưỡng hữu giã 義 與 利 者,人 之 所 兩 有 也: Nghĩa với lợi là người ta có cả hai vậy ». Nhưng hễ người ta biết khiến lòng hiếu nghĩa thắng được lòng dục lợi, thì thành ra hay, mà để lòng dục lợi đè được lòng hiếu nghĩa, thì thành ra dở. « Nghĩa thắng lợi giả vi trị thế, lợi khắc nghĩa giả vi loạn thế 義 勝 利 者 爲 治 世,利 克 義 者 爲 亂 世: Nghĩa thắng được lợi là đời trị, lợi được nghĩa là đời loạn ». Đại-lược, XXVII). Cho nên nói rằng: « Tiên nghĩa nhi hậu lợi giả vinh, tiên lợi nhi hậu nghĩa giả nhục 先 義 後 利 者 榮,先 利 而 後 義 者 辱: Nghĩa trước mà lợi sau là vinh, lợi trước mà nghĩa sau là nhục » (Vinh-nhục, IV).

Không phải là Tuân-tử bỏ hết điều lợi, nhưng ông cho là điều lợi mà theo điều nghĩa, thì cái lợi có phần lớn hơn. Cái lợi do cái nghĩa mà ra, là cái lợi chính đáng, không việc gì phải bỏ, miễn là lúc nào cũng phải theo như lời Khổng-tử đã dạy: « Kiến lợi tư nghĩa 見 利 思 義: Thấy điều lợi nghĩ đến điều nghĩa » là được.

Trí dũng. — Người quân-tử phải có trí và có dũng, nhưng phải biết phân biệt thế nào là cái trí và cái dũng của người quân-tử, và thế nào là cái trí và cái dũng của kẻ tiểu-nhân. Tuân-tử nói rằng: « Có cái trí của thánh-nhân, có cái trí của kẻ sĩ và quân-tử, có cái trí của tiểu-nhân, có cái trí của đứa dịch-phu. Nói nhiều thì có văn-vẻ và có thống-loại, nghị-luận suốt ngày về những điều mình nói, thiên cử vạn biến, mà cái thống loại vẫn là một, ấy là cái trí của thánh-nhân.

« Nói ít thì dễ-dàng mà rõ-rệt, nghị-luận có khuôn phép, không có phóng-túng, như kéo thẳng cái dây, ấy là cái trí của kẻ sĩ và quân-tử.

« Lời nói thì siểm, việc làm thì trái với lời nói, làm việc thì nhiều sự khinh nhờn, ấy là cái trí của kẻ tiểu-nhân,

« Thoắng-thỉnh, bộp-chộp mà không có thống-loại, kỳ-quặc, viển-vông mà không dùng được, gãy gọn, nhanh-nhẩu, tinh-tường mà không vụ lấy thiết-thực, không kể việc phải việc trái, không bàn đến điều cong điều thẳng, chủ ý chỉ kỳ lấy tranh thắng với người ta, ấy là cái trí của đứa dịch-phu vậy » (Tính-ác, XXIII).

Dũng cũng có ba thứ: « Có thượng dũng, có trung dũng, có hạ dũng. Khi thiên-hạ có đạo trung, thì mình quả-cảm mà giữ cái thẳng của mình, không nương tựa vào đâu cả; đấng tiên-vương có đạo thì mình quả-cảm theo cái ý mà làm, trên không theo ông vua đời loạn, dưới không theo dân đời loạn; chỗ có nhân thì không biết có sự bần-cùng, chỗ không có nhân thì không biết có sự phú quí (nhân chi sở tại vô bần-cùng, nhân chi sở vong vô phú quí 仁 之 所 在 無 貧 窮,仁 之 所 亡 無 富 貴). Thiên-hạ biết đến, thì đồng vui khổ với thiên-hạ; thiên-hạ không biết đến, thì chững-chạc đứng một mình trong khoảng trời đất mà không sợ, ấy là thượng dũng.

« Lễ thì cung mà ý thì kiệm, chỉnh-tề ở sự tín mà khinh-bỉ tài-hóa. Ai là người hiền thì dám suy-tôn mà kính chuộng, ai là kẻ bất-tiếu thì dám đẩy ra mà bỏ đi, ấy là trung-dũng.

« Rẻ mình mà trọng của cải, yên mình ở chỗ họa-nạn mà hay dùng lời bông-lông mà giải-thuyết mọi điều, cẩu-thả mà không kể điều phải điều trái, chủ ý chỉ kỳ lấy tranh thắng với người ta, ấy là hạ dũng vậy » (Tính-ác, XXIII).

Hễ kẻ học-giả không biết dùng cái dũng cho chính-đáng, thì thành ra trái với đạo-lý và làm mất cái phẩm-giá của người quân-tử. Bởi vậy Tuân-tử lại nói: « Có cái dũng của hạng cẩu-trệ, có cái dũng của bọn đi buôn và đi ăn-trộm, có cái dũng của kẻ sĩ và người quân-tử.

« Tranh ăn tranh uống, không có liêm-sỉ, không biết phải trái, không tránh chỗ đau chỗ chết, không sợ người đông sức mạnh, mờ mờ vậy chỉ thấy lợi về ăn uống mà thôi, ấy là cái dũng của hạng cẩu-trệ. Vì việc làm và điều lợi, tranh của cải, không có từ-nhượng, quả-cảm làm liều, thám quá độ mà trái phép, mờ-mờ vậy chỉ thấy cái lợi mà thôi, ấy là cái dũng của bọn đi buôn và đi ăn trộm. Khinh cái chết mà bạo ngược, ấy là cái dũng của kẻ tiểu-nhân. Cứ cái nghĩa thì theo, không khuynh-hướng về quyền thế, không đoái-tưởng đến lợi-lộc, đem cả một nước mà cho, cũng không thèm nhìn, trọng cái chết, giữ cái nghĩa mà không rối, ấy là cái dũng của kẻ sĩ và người quân tử vậy » (Vinh nhục, IV)

Trung hiếu. — Trung hiếu là những đức tốt, ai cũng phải theo, song người đi học phải biết biện-biệt thế nào là thật trung, thật hiếu. Tuân-tử nói rằng: « Nhập hiếu xuất đễ, nhân chi tiểu hạnh giã; thượng thuận hạ đốc, nhân chi trung hạnh giã; tòng đạo bất tòng quân, tòng nghĩa bất tòng phụ, nhân chi đại hạnh giã 入 孝 出 弟,人 之 小 行 也;上 順 下 篤,人 之 中 行 也;從 道 不 從 君,從 義 不 從 父,人 之 大 行 也: Vào hiếu ra đễ là cái tiểu hạnh của người ta; thuận theo người trên, thân yêu kẻ dưới, là cái trung hạnh của người ta; theo đạo mà không theo vua, theo nghĩa mà không theo cha, là cái đại hạnh của người ta vậy » (Tử-đạo, XXIX).

Người làm tôi có bốn hạng. « Có bậc đại trung, có bậc thứ trung, có bậc hạ trung, có kẻ quốc-tặc. Lấy đức mà báo đáp vua, để hóa được vua, ấy là bậc đại trung. Lấy đức để sửa lỗi của vua mà giúp vua, ấy là bậc thứ trung. Lấy điều phải mà can-ngăn điều trái, làm cho vua giận, ấy là bậc hạ trung. Không lo đến sự vinh, sự nhục của vua, không lo đến nước hay hay dở, chỉ thâu-hợp cẩu-dung để giữ lấy lợi lộc, nuôi lấy sự giao-thông bè đảng, ấy là kẻ quốc-tặc vậy », (Thần-đạo, XIII).

Người làm con hiếu có ba hạng: Người con hiếu có ba điều sở dĩ không theo mệnh cha. Theo mệnh thì cha mẹ nguy, không theo mệnh thì cha mẹ yên, người hiếu-tử không theo mệnh là hợp với đạo trung. Theo mệnh thì cha mẹ nhục, không theo mệnh thì cha mẹ vinh, người hiếu-tử không theo mệnh là hợp với điều nghĩa. Theo mệnh là cầm thú, không theo mệnh thì làm cho cha mẹ được vẻ-vang, người hiếu-tử không theo mệnh là kính cha mẹ. Cho nên điều đáng theo mà không theo là không phải đạo làm con, chưa nên theo mà đã theo, là không hợp đạo trung. Biết rõ cái nghĩa đáng theo và không đáng theo mà lại hết sức cung kính, trung tin, đoan xác, rồi cứ cẩn-thận mà làm, thế gọi là đạo hiếu vậy » (Tử-đạo, XXIX).

Người học-giả phải biết rõ những điều phải trái. Dẫu cái đức tốt thế nào mà mình không biết dùng cho hợp đạo lý, thì cũng thành ra dở. Người quân-tử sở dĩ khác kẻ tiểu-nhân chỉ có sự biện-biệt rõ cái đáng làm và không đáng làm đó mà thôi.

Lễ nhạc. — Hậu-nho thường cho cái học của Tuân-tử thiên về mặt thượng-lễ. Mới nghe tưởng là lời ấy không được đúng, vì Nho-giáo bao giờ cũng lấy lễ nhạc làm trọng, chứ không riêng gì cái học của Tuân-tử. Song xét ra thì lời phê-bình ấy cũng không phải là lầm hẳn, vì chưng Tuân-tử đã xướng lên cái thuyết tính-ác, thì tất là về đường giáo-dục, phải dùng lễ nghĩa để kiểu-sức cái bản-tính và dùng âm-nhạc để hàm-dưỡng cái tình-dục của người ta. Tuân-tử lại quá thiên về mặt dùng lễ nghĩa. Ông nói rằng : « Lễ giả nhân đạo chi cực giã 禮 者 人 道 之 極 也: Lễ là cái cùng-cực của đạo người vậy » (Lễ-luận, XIX). Tu thân, trị quốc, việc gì ông cũng lấy hai chữ long lễ 隆 禮 làm đầu. Bởi vậy cái học của ông thành ra một mối cực-đoan trái với cái học của Khổng-tử.

Lễ. — Tuân-tử cho lễ là bởi người quân-tử đặt ra để điều-lý vạn sự và giữ cái mối trị trong thiên-hạ, cho nên nói rằng: « Thiên địa giả sinh chi thủy giã, lễ nghĩa giả trị chi thủy giã, quân-tử giả lễ nghĩa chi thủy giã 天 地 者 生 之 始 也,禮 義 者 治 之 始 也,君 子 者 禮 義 之 始 也: Trời đất là cái đầu sự sinh, lễ nghĩa là cái đầu sự trị, quân-tử là cái đầu lễ nghĩa » (Vương chế, IX). Chữ thủy ở đây tức là cái gốc vậy. Người quân-tử chế ra lễ nghĩa để làm cho trên có vua có thầy, dưới có cha có con, lập thành cái gốc lớn của thiên-hạ. Nếu không có cái gốc lớn ấy thì thành ra loạn.

Tại làm sao mà có lễ? « Người sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể không tìm, tìm mà không có chừng mực, giới hạn, thì không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Tiên-vương ghét cái loạn, cho nên chế lễ nghĩa để phân ra trật-tự, để nuôi cái muốn của người ta, cấp cái tìm của người ta, khiến cái muốn không đến cùng kiệt các vật, các vật không làm cùng kiệt cái muốn; các vật với cái muốn phù trì lẫn nhau mà sinh trưởng, ấy là cái sở khởi của lễ. Cho nên lễ là nuôi vậy. Bậc quân-tử đã được cái nuôi, lại muốn cái phân-biệt. — Sao gọi là phân-biệt? — Rằng: Sang hèn có bậc, lớn nhỏ có khác nhau, nghèo giàu khinh trọng đều có cái xứng đáng vậy » (Lễ-luận, XIX).

Tuân-tử nói rằng: « Lễ có ba cái gốc: Trời đất là cái gốc sự sinh, tiên-tổ là cái gốc chủng-loại, vua và thầy là cái gốc sự trị. Không có trời đất thì ở đâu mà sinh, không có tiên-tổ thì ở đâu mà ra, không có vua có thầy thì lấy đâu mà trị. Ba điều ấy mà thiếu đi một, là người ta không yên được. Cho nên trên thờ Trời, dưới thờ đất, tôn tổ-tiên, trọng vua và thầy, ấy là ba cái gốc của lễ vậy » (Lễ-luận, XIX).

Chữ lễ của Tuân-tử cũng có nghĩa rất rộng, đối với người nào cũng phải có lễ. « Lễ giã giả, quí giả kính yên, lão giả hiếu yên, trưởng giã đễ yên, ấu giả từ yên, tiện giả huệ yên 禮 也 者 貴 者 敬 焉,老 者 孝 焉,長 者 弟 焉,幼 者 慈 焉,賤 者 惠 焉: Lễ là đối với kẻ quí thì kính, đối với kẻ già thì hiếu-thảo, đối với kẻ lớn thì thuận, đối với người trẻ thì từ thiện, đối với kẻ hèn thì có ân-huệ » (Đại-lược, XXVII). Nhất là về sự thờ phụng kẻ sống, cúng tế người chết, người quân-tử rấ phải nghiêm-cẩn lắm. « Lễ giả cẩn ư trị sinh tử giả giã. Sinh, nhân chi thủy giã; tử, nhân chi chung giã. Thủy chung câu thiện, nhân đạo tất hỹ 禮 者 謹 於 治 生 死 者 也.生,人 之 始 也,死,人 之 終 也.始 終 俱 善,人 道 畢 矣: Lễ là phải nghiêm cẩn về việc trị sự sinh, sự tử. Sinh là cái khởi đầu của người ta, tử là cái cuối cùng của người ta. Thủy chung đều hay cả, thì trọn cái đạo làm người vậy ». « Cho nên người quân-tử phải kính cẩn lúc thủy mà thận trọng lúc chung. Thủy chung như nhất, ấy là cái đạo của người quân-tử, và cái văn vẻ của lễ nghĩa. Nếu hậu lúc sinh mà bạc lúc tử, tức là kính cái có biết mà nhờn cái không biết, ấy là đạo của người gian ác và lại là cái lòng bội-bạn vậy » (Lễ-luận, XIX).

Đối với xã-hội và quốc-gia, thì Tuân-tử nói rằng: « Vạn vật cùng sinh trong khoảng trờ-đất mà hình-thể thì khác nhau, không có cái thích-nghi thường định mà đều có cái hữu-dụng cả. Số là nhân-loại cùng ở với nhau, sự cầu thì giống như nhau, mà lối cầu thì hhác nhau: cái muốn thì giống như nhau, mà sự biết thì khác nhau. Người sinh ra ở đời ai cũng có cái muốn thỏa ý mình, mà cái muốn ấy thì kẻ trí người ngu giống như nhau, còn cách làm cho thỏa ý mình, thì kẻ trí người ngu khác nhau. Thế đồng mà trí khác, việc làm riêng mà không có vạ, buông cái dục mà không cùng, thì lòng cạnh-tranh của dân nổi lên mà không làm cho vừa ý được. Như vậy thì kẻ trí-giả chưa làm được việc trị vậy. Kẻ trí-giả chưa làm được việc trị, thì công danh chưa nên. Công danh chưa nên, thì quần-chúng đều một loạt như nhau cả. Quần-chúng đều là một loạt như nhau, thì vua tôi chưa dựng vậy. Không có vua để chế bầy tôi, không có kẻ trên để chế người dưới, thì thiên-hạ làm hại sự sinh-hoạt và buông rong cái lòng muốn ra. Lòng muốn lòng ghét thì kẻ trí người ngu cùng giống như nhau, nhưng cái muốn thì nhiều mà vật thì ít, tất là thành ra tranh nhau. Cho nên trăm nghề thành ra để nuôi một người, khiến cho giữ được mối trị, vì người giỏi không thể kiêm đủ mọi nghề, và một người không thể kiêm đủ các chức quan. Ở cách biệt nhau mà không giao-thiệp với nhau thì khốn cùng, quần-tụ với nhau mà không chia trật-tự thì tranh-đoạt nhau. Khốn cùng là lo, tranh-đoạt là vạ. Cho nên cứu điều lo, trừ điều vạ, thì không gì bằng làm cho rõ cái phận kẻ trên người dưới, khiến người ta quần-tụ được. Kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, người khôn sợ người ngu, dân dưới trái với người trên, người trẻ khinh nhờn người lớn, không lấy đức làm việc chính để dạy dỗ người ta biết rõ phận nghĩa, như vậy thì kẻ già người yếu có cái lo không ai nuôi, người khỏe mạnh có cái vạ phân-tranh. Việc làm khó nhọc thì ghét, công lợi thì muốn, chức-nghiệp không phân rõ, như vậy thì người ta có cái lo gây việc và cái vạ tranh công. Nam nữ phối-hợp với nhau, vợ chồng phân biệt, việc cưới hỏi đưa đón mà không có lễ, như thế người ta có cái lo về sự mất lẽ phối-hợp mà có cái vạ tranh nhau về cái sắc. Cho nên kẻ trí-giả vì những điều ấy mà phân ra phận nghĩa cho rõ-ràng vậy » (Phụ-quốc, X).

Lễ là cốt để phân-biệt ra trật-tự và định cái giới-hạn cho minh-bạch, khiến việc hành-động của nhân-quần không rối loạn. Người ta ai cũng có lòng muốn, mà lòng muốn của người lại không biết đâu là bờ, nếu không có lễ để chia cái phận nghĩa cho rõ-ràng, thì tất thành ra sự tranh-đoạt. Vậy nên trong chữ lễ, Tuân-tử lấy chữ phận làm cốt.

Tuân-tử tin rằng dùng lễ có hiệu-quả rất lớn về việc xã-hội và quốc-gia. Cho nên ông nói rằng: « Long lễ quí nghĩa giả kỳ quốc trị, giản lễ tiện nghĩa giả kỳ quốc loạn 隆 禮 貴 義 者 其 國 治,簡 禮 賤 義 者 其 國 亂: Trọng lễ quí nghĩa thì nước trị, giản lễ rẻ nghĩa thì nước loạn » (Nghị-binh, XV). Ông cho lễ có ảnh-hưởng đến sự sinh-hoạt của người ta ở trong xã-hội, mà việc trị loạn đều bởi đó mà ra. « Lễ chi ư chính quốc-gia giã, như quyền hành chi ư khinh trọng giã, như thằng mặc chi ư khúc trực giã. Cố nhân vô lễ bất sinh, sự vô lễ bất thành, quốc-gia vô lễ bất ninh 禮 之 於 正 國 家 也,如 權 衡 之 於 輕 重 也,如 繩 墨 之 於 曲 直 也.故 人 無 禮 不 生,事 無 禮 不 成,國 家 無 禮 不 寧[9]: Lễ đối với việc quốc-gia như quả cân và cán cân đối với sự nặng nhẹ, như dây và mực đối với đường thẳng đường cong vậy. Cho nên người mà không có lễ thì không sinh, việc mà không có lễ thì không nên, quốc-gia mà không có lễ thì không yên » (Đại-lược, XXVII).

Cái học của Tuân-tử trọng lễ như thế, cho nên ông cho là bất cứ việc gì hễ không có lễ là hỏng. « Lễ là cái cùng-cực của sự trị và sự biện-biệt, cái gốc của sự làm cho nước mạnh, cái đạo của sự uy-hành, cái cốt-yếu của công danh. Bậc vương bậc công theo đó mà được thiên-hạ, không theo đó thì làm hỏng xã-tắc. Cho nên áo giáp bền, ngọn giáo nhọn, không đủ để thắng trận, thánh cao hào sâu, không đủ lấy làm bền vững, lệnh nghiêm hình nhiều, không đủ lấy làm uy. Dùng lễ thì việc gì cũng thi-hành được, không dùng lễ thì việc gì cũng bỏ cả » (Nghị-binh, XV).

Lễ có thế-lực mạnh như thế, cho nên nói rằng: « Lễ giả pháp chi đại phận, quần loại chi cương kỷ giã. Cố học chi hồ lễ nhi chỉ hỹ 禮 者 法 之 大 分,羣 類 之 綱 紀 也.故 學 至 乎 禮 而 止 矣: Lễ là cái phận lớn của điển-pháp, cái kỷ-cương của quần-loại. Cho nên phải học đến lễ mới thôi vậy » (Khuyến-học, I).

Nhạc. — Lễ là phân, nhạc là hòa. Lễ là để tiết-chế tâm thân, nhạc là lấy cái đẹp cái hay tự-nhiên mà cảm-hóa lòng người. Bởi vậy Tuân-tử rất chú ý đến nhạc, và bài-bác họ Mặc về cái thuyết bỏ nhạc. Ông nói rằng: « Nhạc là để làm cho vui vậy. Cái tính người ta chẳng ai là chẳng muốn thế, cho nên không thể không có nhạc. Nhạc thì phát ra ở thanh âm, hình ra ở động tĩnh, mà cái đạo của người ta và sự biến đổi của thanh âm, động tĩnh, tính thuật, là hết thảy ở nhạc vậy. Cho nên người ta không thể không có nhạc, nhạc không thể không có hình, hình mà không làm ra thành đạo, thì không thể không có loạn. Bậc tiên-vương ghét cái loạn cho nên mới chế ra tiếng nhã, tụng, để lấy mà làm cái đạo cho người ta, khiến cái thanh đủ lấy làm vui mà không lưu-đãng, khiến cái văn đủ biện-luận mà không ngoa, khiến cái khúc-trực, phồn tỉnh, liêm nhục, tiết tấu, đủ lấy mà cảm động cái lòng thiện của người ta, để cho cái khi tà-ô không có lối nào mà tiếp được. Ấy là cái phương-pháp của tiên-vương đặt ra nhạc vậy... Phàm cái âm nhạc vào người ta sâu, mà hóa người ta chóng, cho nên tiên-vương cẩn-thận làm ra văn. Nhạc trung-bình thì dân hòa-thuận mà không lưu-đãng, nhạc nghiêm-trang thì dân tề không loạn. Dân hòa và tề, thì binh mạnh thành bền... Cho nên nói rằng: Nhạc là để làm cho vui vậy. Người quân-tử vui về được cái đạo, tiểu-nhân vui về được cái muốn. Lấy cái đạo chế cái muốn, thì vui mà không loạn, lấy cái muốn mà quên cái đạo, thì mê-hoặc mà không vui. Cho nên nhạc là để làm cái đạo cho sự vui vậy. Tiếng kim thạch ti trúc là cốt ở đạo đức vậy. Nhạc thi-hành ra thì cái sở hướng của dân có phương. Bởi vậy nhạc là cái thịnh đức của việc trị người vậy » (Nhạc-luận, XX).

Nói rút lại, vì người ta sinh ra ai cũng có tình có dục, cho nên phải có lễ chế chia rõ cái phận nghĩa, để khỏi cái lo về sự tranh-đoạt; người ta lại thích mến sự khoái-lạc, cho nên phải đặt ra âm nhạc trung bình để có cái vui thú chính-đáng, khiến cho không có điều dâm-loạn. Đó là cái chủ-đích của sự dùng lễ nhạc vậy.

V. — CHÍNH-TRỊ TRIẾT-LÝ

Cái học-thuyết của Nho-giáo tuy có phần triết-lý rất cao, nhưng bao giờ cũng chuộng sự thiết-thực, cho nên các học-giả rất chú-trọng về đường giáo-dục và chính-trị. Giáo-dục là cách dạy người cho biết đạo-lý làm người, mà chính-trị là cách trị người trị nước cho hợp đạo-lý. Tuân-tử theo cái tôn-chỉ ấy, cho nên ông lấy việc chính-trị làm việc hành đạo rất hay.

Đạo hợp-quần của nhân-loại. — Người ta sở dĩ hơn các loài vật là vì biết hợp-quần để lập thành xã-hội, có tôn ti trật-tự, khiến cho thiên-hạ được yên trị. Tuân-tử nói rằng: « Lửa và nước có khí mà không có sinh, cây và cỏ có sinh mà không có biết, muông chim có biết mà không có nghĩa. Người thì có khí, quí nhất trong thiên-hạ. Người ta sức không bằng con trâu, chạy không bằng con ngựa, thế mà con trâu con ngựa đều bị người ta dùng được, là sao? Là tại người ta biết hợp-quần vậy. Người ta lấy cái gì mà hợp-quần được? — Rằng: lấy cái phận trên dưới. Định ra phận trên dưới thì làm thế nào mà có nhân? — Rằng: lấy nghĩa. Lấy nghĩa mà định trên dưới thì hòa, hòa thì hợp làm một, hợp làm một thì có nhiều sức, có nhiều sức thì mạnh, mạnh thì thắng được muôn vật » (Vương-chế, IX).

Trong sự hợp quần của loài người có nghĩa là quí hơn cả. Bởi có nghĩa, cho nên người ta mới biết phân ra tôn ti trật-tự, để giữ cho sự sinh-hoạt của nhân-quần không có sự rối loạn. « Nhân chi sinh bất năng vô quần, quần nhi vô phận tắc tranh, tranh tắc loạn, loạn tắc cùng hỹ. Cố vô phận giả nhân chi đại hại giã, hữu phận giả thiên-hạ chi đại-lợi giã, nhi nhân-quân giả sở dĩ quản phận chi khu yếu giã 人 之 生 不 能 無 羣,羣 而 無 分 則 爭,爭 則 亂,亂 則 窮 矣.故 無 分 者,人 之 大 害 也,有 分 者 天 下 之 大 利 也,而 人 君 者 所 以 管 分 之 樞 要 也: Người ta sinh-hoạt ở đời không thể không quần-tụ, quần-tụ mà không định phận trên dưới thì tranh-đoạt nhau, tranh-đoạt nhau thì loạn, loạn thì khốn cùng vậy. Cho nên không định phận trên dưới là cái hại lớn của người ta, có định phận trên dưới là cái lợi lớn của thiên-hạ, mà đấng nhân-quân là cái then chốt để cai-quản cái phận trên dưới » (Phú-quốc, X). Vậy đã có nhân-quần là phải có nhân-quân, để giữ cái trật-tự cho xã-hội.

Quân-đạo. — Tuân-tử định rõ cái nghĩa quân-đạo, khiến cho bậc nhân-quân biết cái chức-vụ của mình. Ông nói rằng: « Đạo giả hà giã? — Viết: quân-đạo giã. — Quân giả hà giã? — Viết: năng quần giã. — Năng quần giã giả hà giã? — Viết: thiện sinh dưỡng nhân giả giã, thiện ban trị nhân giả giã, thiện hiển thiết nhân giả giã, thiện phiên sức nhân giả giã. Thiện sinh dưỡng nhân giả, nhân thân chi; thiện ban trị nhân giả, nhân yên chi; thiện hiển thiết nhân giả, nhân lạc chi; thiện phiên sức nhân giả, nhân vinh chi. Tứ thống giả cụ, nhi thiên-hạ qui chi, phù thị chi vị năng quần 道 者 何 也?— 曰 君 道 也.— 君 者 何 也?— 曰 能 羣 也.— 能 羣 也 者 何 也?— 曰 善 生 養 人 者 也,善 班 治 人 者 也,善 顯 設 人 者 也,善 藩 飾 人 者 也.善 生 養 人 者,人 親 之;善 班 治 人 者,人 安 之;善 顯 設 人 者,人 樂 之;善 飾 人 者,人 榮 之.四 統 者 俱,而 天 下 歸 之,夫 是 之 謂 能 羣: Đạo là sao? — Rằng: quân-đạo vậy. — Quân giả là sao? — Rằng: có thể quần-tụ người ta vậy. — Có thể quần-tụ người ta là thế nào? — Rằng: khéo giữ cho người ta sống và khéo nuôi người ta, khéo định ra trật-tự và cai-trị người ta, khéo làm cho rõ rệt và thiết-lập ra mọi việc cho người ta, khéo che đậy và sửa-sang cho ta. Ai khéo giữ cho người ta sống và khéo nuôi người ta, thì người ta thân yêu; ai khéo định ra trật-tự và cai-trị người ta, thì người ta yên; ai khéo làm cho rõ-rệt và thiết lập ra mọi việc cho người ta, thì người ta vui; ai khéo che đậy và sửa-sang cho người ta, thì người ta sướng. Bốn điều ấy mà đủ cả, là thiên-hạ theo về mình, thế gọi là có thể quần-tụ người ta » (Quân-đạo, XII). Theo cái tôn-chỉ ấy thì bậc nhân-quân phải biết rõ cái nghĩa hợp-quần. Hễ cái nghĩa ấy chính-đáng thì thiên-hạ được yên vui mà sinh-hoạt. Bởi thế mới nói rằng: « Quân giả thiện quần giã. Quần đạo đáng, tắc vạn vật giai đắc kỳ nghi, lục súc giai đắc kỳ trưởng, quần sinh giai đắc kỳ mệnh 君 者 善 羣 也.羣 道 當,則 萬 物 皆 得 其 宜,六 畜 皆 得 其 長,羣 生 皆 得 其 命: Quân là người khéo khiến người ta hợp-quần. Cái đạo hợp-quần mà chính-đáng, thì vạn vật đáng thế nào đều được như thế, lục súc đều được sinh-trưởng, quần sinh đều được yên tính mệnh » (Vương-chế, XI).

Đấng nhân-quân là người làm khuôn làm phép cho thiên-hạ, cho nên nói rằng: « Quân giả nghi giã, nghi chính nhi ảnh chính; quân giả bàn giã, bàn viên nhi thủy viên, quân giả vu giả, vu phương nhi thủy phương 君 者 儀 也,儀 正 而 影 正;君 者 槃 也,槃 圓 而 水 圓;君 者 盂 也,盂 方 而 水 方: Quân-giả là cái nêu, cái nêu ngay thì cái bóng ngay; quân-giả là cái mâm, cái mâm tròn thì nước tròn; quân-giả là cái chậu, cái chậu vuông thì nước vuông » (Quân-đạo, XII). Quân là cái khuôn, dân là cái phải theo khuôn mà thành ra tròn hay vuông. Vậy quân là cái gốc sự sinh-hoạt của dân, cho nên nói rằng: « Quân giả là cái nguồn của dân, cái nguồn trong thì giòng nước trong, nguồn đục thì dòng nước đục. Cho nên người có xã-tắc, không yêu dân, không lam lợi cho dân, mà cầu dân thân yêu mình, thì không thể được vậy. Dân đã không thân không yêu mình mà cầu để mình dùng và để vì mình mà liều chết, thì không thể được vậy. Dân đã không để mình dùng, không vì mình mà liều chết, mà cầu binh mạnh, thành bền, thì không thể được vậy. Binh không mạnh thành không bền, mà cầu quân địch không đến, thì không thể được vậy. Quân địch đã đến mà cầu không có sự nguy-tước, thì không thể được vậy. Cái thực tình sự nguy-tước, diệt-vong, đều ở sự tích-tập ấy vậy » (Quân-đạo, XII). Bậc nhân-quân muốn cho dân yêu mình và quí mình, thì phải có nhân có nghĩa. « Hết nhân với thiên-hạ, hết nghĩa với thiên-hạ, hết oai với thiên-hạ. Hết nhân với thiên-hạ thì ai cũng thân yêu, hết nghĩa với thiên-hạ thì ai cũng quí, hết oai với thiên-hạ thì không ai địch nổi » (Vương-chế, IX). Vậy, lấy nhân nghĩa mà trị thiên-hạ, thì thiên-hạ cho ngôi quân là cái gốc chung của thiên-hạ; mà những sự sửa-sang và xếp-đặt làm cho tôn-nghiêm và vững-bền cái ngôi quân, là cốt để làm tôn nghiêm và vững-bền cái gốc của thiên-hạ. Cho nên nói rằng: « Người nào làm tốt đẹp cho đấng nhân-quân là làm cho tốt đẹp cái gốc của thiên-hạ, làm cho yên đấng nhân-quân là làm cho yên cái gốc của thiên-hạ, làm tôn-quí đấng nhân-quân là làm tôn-quí cái gốc của thiên-hạ. Vì đời xưa đấng tiên-vương muốn phân-biệt ra để làm cho có đẳng-cấp, cho nên hoặc cho là đẹp, hoặc cho là xấu, hoặc cho là hậu, hoặc cho là bạc, hoặc cho là nhàn, hoặc cho là vui, hoặc cho là khó nhọc, không phải là chỉ cốt để bay-vẽ, khoe-khoang, mà cốt để làm cho rõ cái văn-vẻ của đạo nhân và thông-đạt sự hòa-thuận của đạo nhân vậy. Chạm loài gỗ, khắc loài kim, làm ra có sắc có vẻ là chỉ để biện-biệt kẻ quí kẻ tiện mà thôi, chứ chính mình không cầu lấy sự đẹp để lòe người; làm ra cái chuông, cái trống, cái sáo, cái khánh, đàn cầm đàn sắt, cái sênh, để biện-biệt việc lành việc dữ, để hợp sự vui, định sự hòa mà thôi, chứ chính mình không cầu lấy cái sướng quá độ; làm ra cung thất, đền đài, cốt để tránh lúc khô lúc ẩm và nuôi cái đức tính, biện cái khinh cái trọng mà thôi, chứ chính mình không cầu cái đẹp ở bề ngoài... Nếu dùng nhiều sắc đẹp để làm đồ mặc, dùng nhiều mùi ngon để làm đồ ăn, dùng tài vật để chế ra đồ-đạc, hợp thiên-hạ mà làm chủ, là không phải để bày-vẽ ra cho sang, cho sướng, nhưng cốt để làm chủ-tể thiên-hạ, cai-trị muôn vật, nuôi muôn dân. Sự kiêm-chế thiên-hạ thì còn gì hay bằng cái lòng thiện của bậc nhân-nhân nữa? Cho nên cái trí-lự của bậc ấy đủ trị được thiên-hạ, cái nhân-hậu của bậc ấy đủ yên được thiên-hạ, cái tiếng đức của bậc ấy đủ hóa được thiên-hạ... Trăm họ thật được nhờ cái khuôn của bậc ấy, cho nên cùng đem nhau chịu khó nhọc làm cho bậc ấy được thong-thả, là để nuôi cái khuôn của bậc ấy; trăm họ thật được mến cái ơn hậu của bậc ấy, cho nên đem nhau liều chết mà cứu giúp bậc ấy, là để nuôi cái ơn hậu của bậc ấy; trăm họ thật quí cái đức của bậc ấy, cho nên mới khắc dũa đục chạm làm ra văn-vẻ mà phiên-sức cho bậc ấy, là để nuôi cái đức của bậc ấy. Cho nên khi bậc nhân-nhân làm chủ, thì trăm họ quí như Trời, thân như cha mẹ, vì bậc ấy mà liều sống chết, song vẫn vui lòng. Không tại cớ gì khác, chỉ tại là cái của trăm họ cho là phải, thì thật đẹp; cái của trăm họ được, thì thật lớn; cái của trăm họ lợi, thì thật nhiều » (Phú-quốc, X).

Đấng nhân-quân lo không có đức mà không lo không có sức mạnh. Vì rằng có đức thì tất có sức mạnh. Bởi vậy mới nói rằng: « Quân-tử dĩ đức, tiểu-nhân dĩ lực. Lực giả đức chi dịch giã. Bách tính chi lực đãi chi nhi hậu công, bách tính chi quần đãi chi nhi hậu hòa, bách tính chi tài đãi chi nhi hậu tụ, bách tính chi thế đãi chi nhi hậu yên, bách tính chi thọ đãi chi nhi hậu trường 君 子 以 德,小 人 以 力.力 者 德 之 役 也.百 姓 之 力 待 之 而 後 功,百 姓 之 羣 待 之 而 後 和,百 姓 之 財 待 之 而 後 聚,百 姓 之 勢 待 之 而 後 安,百 姓 之 壽 待 之 而 後 長: Người quân-tử lấy đức, kẻ tiểu-nhân lấy sức mạnh. Cái sức mạnh là để cho cái đức sai khiến. Cái sức mạnh của trăm họ đợi cái đức của quân-thượng rồi sau mới thành công, sự quần-tụ của trăm họ đợi cái đức của quân-thượng rồi sau mới hòa thuận, cái tài-sản của trăm họ đợi cái đức của quân-thượng rồi sau mới tụ-hội, cái thế-lực của trăm họ đợi cái đức của quân-thượng rồi sau mới yên, cái thọ của trăm họ đợi cái đức của quân-thượng rồi sau mới lâu dài » (Phú-quốc, X). Ý nói người làm vua làm chúa vụ lấy cái đức mà phủ-dụ người dưới, người trăm họ lấy sức mạnh mà phục-dịch ngườị trên. Trăm họ có sức mạnh, có năng-lực hợp-quần, có của-cải, có thế-lực, nhưng cần phải có cái đức của quân-thượng điều-lý, thì mới không sinh ra sự tranh-đoạt.

Thiên-hạ trọng bậc nhân-quân, tức là trọng cái đẹp chung và cái lợi chung của mình, mà bậc nhân-quân giữ cái ngôi mình, là giữ cái của chung cả thiên-hạ, chứ không phải là của riêng một nhà một họ nào. Cái ý-tưởng ấy là cái ý-tưởng rất trọng yếu của Nho-giáo. Người làm vua làm chúa phải lấy cái đức mà hóa thiên-hạ, dùng cái trí công-chính mà làm lợi cho thiên-hạ, như vậy thì tất là thiên-hạ phải tôn phải quí. Nếu người nào giữ ngôi quân mà lại chỉ biết co một cái quyền lợi của mình mà thôi, và làm những điều dâm-tàn bạo-ngược, thì là trái với quân-đạo, không phải là bậc nhân-quân nữa. Vì rằng: « Thiên chi sinh dân phi vị quân giã, thiên chi lập quân dĩ vị dân giã 天 之 生 民 非 爲 君 也,天 之 立 君 以 爲 民 也: Trời sinh ra dân không phải là vì ông vua, Trời lập ông vua lên là bởi vì dân vậy » (Đại-lược, XXVII). Bởi vậy thiên-hạ tuy phải tôn phù nhân-quân, nhưng khi nhân-quân là người tàn bạo, thì thiên-hạ lại có quyền được trừ bỏ đi. Chỗ này Tuân-tử cũng đồng một ý với Mạnh-tử, cho nên nói rằng: « Tru bạo quốc chi quân nhược tru độc phu 誅 暴 國 之 君 若 誅 獨 夫: Giết ông vua tàn-bạo một nước cũng như giết một đứa độc-phu » (Chính-luận, XVIII). Vậy nên ai biết lấy nhân-nghĩa mà trị thiên-hạ là yên, lấy tàn-bạo mà trị thiên-hạ là nguy. « Quân-giả là thuyền, thứ-dân là nước. Nước chở thuyền, nhưng nước lại đánh đắm thuyền. Cho nên bậc nhân-quân muốn yên, thì không gì bằng trọng lễ và kính kẻ sĩ, muốn lập công danh, thì không gì bằng chuộng kẻ hiền, khiến kẻ năng. Ấy là cái tiết lớn của bậc nhân-quân vậy » (Vương-chế, IX),

Pháp hậu-vương. — Cái học của Tuân-tử về đường chính-trị có một điều tương-phản các tiền-nho là cái thuyết pháp hậu-vương. Các nho-giả đời trước đều lấy những thánh-vương như Nghiêu, Thuấn, làm tiêu-chuẩn. Tuân-tử thì cho những thánh-vương đời cổ cùng với thánh-vương đời Tam-đại không khác gì nhau, vì các vương-giả, bất cứ đời nào cùng theo một đạo cả. Đấng nhân-quân, cái ngôi thì tôn mà cái chí thì cung-kính, cái tâm thì cẩn-thận mà cái đạo thì lớn, những sự thính thị thì gần mà sự kiến văn thì xa. Bởi sao? Bởi cái thuật của mình giữ được như thế. Cho nên cái tình của nghìn người vạn người, với cái tình của một người cũng như nhau. Trời đất lúc đầu mới sinh ra cũng như ngày nay. Cái đạo của bách vương là cái đạo của hậu-vương», (Bất-cấu, III). Hậu-vương là nói những cận thời chi vương, như vua Văn vua Vũ nhà Chu vậy.

Tuân-tử cho vương-đạo bao giờ cũng là một, mà cái tính tình của người ta bao giờ cũng không khác. Cho nên nói rằng: « Thánh-vương có hàng trăm, ta biết bắt-chước ai? — Rằng: cái văn lâu ngày thì mất, cái tiết-tấu lâu ngày thì tuyệt, chức hữu-tư đời đời giữ pháp-độ lâu ngày cũng mất. Muốn biết cái sự nghiệp của thánh-vương thì xem ở chỗ rõ-ràng, tức là xem ở hậu-vương. Đấng hậu-vương kia là đấng nhân-quân của thiên-hạ, bỏ hậu-vương mà theo thượng-cổ thì ví như bỏ đấng nhân-quân của mình mà theo đấng nhân-quân của người. Cho nên nói rằng: Muốn xem nghìn năm về trước, thì xem mấy ngày bây giờ; muốn biết ức vạn, thì xem một hai; muốn biết đời thượng cổ, thì xét rõ cái đạo nhà Chu; muốn biết đạo nhà Chu, thì xét rõ ông vua mà người ta lấy làm quí. Cho nên nói rằng: lấy gần mà biết xa, lấy một mà biết vạn, lấy cái vi ẩn mà biết cái sáng rõ, tức là thế vậy. Kẻ vọng-nhân nói rằng: « Đời xưa và đời nay, cái tình khác nhau là vì cái đạo trị loạn khác nhau. » Chúng-nhân nghe lời ấy mà mê-hoặc vậy. Chúng-nhân ngu mà không có biện thuyết, dại mà không biết đạc-lượng, cái sở-kiến của chúng-nhân còn khả dối được, huống chi chuyện nghe đã nghìn đời xưa. Đối với bọn vọng-nhân, ngay trong khoảng môn-đình còn có điều sai ngoa, huống nữa là việc ở nghìn đời xưa. Còn bậc thánh nhân thì sao không dối được? — Rằng: thánh-nhân lấy ý mình mà đạc cái ý của cổ nhân, cho nên người không dối được mình, mà mình cũng không dối người. Lấy người đạc người, lấy tình đạc tình, lấy loại đạc loại, lấy ngôn-thuyết mà đạc cái công-nghiệp, lấy đạo mà xem hết cái lý của muôn vật, thì cổ kim không khác gì nhau. Các loại không có trái nhau, tuy lâu đời nhưng cái lý vẫn đồng. Cho nên trông thấy tà-khúc mà không mê, xem tạp-vật mà không hoặc, là vì lấy những điều nói trên mà trắc-đạc. Trước đời Ngũ-Đế không có sự tích của người nào để lại, không phải là không có người hiền, nhưng vì lâu đời vậy. Trong đời Ngũ-Đế không có cái chính-sách truyền lại, không phải là không có thiện-chính, nhưng vì lâu đời vậy. Vua Vũ, vua Thang có truyền cái chính-sách lại, mà không rõ bằng nhà Chu, không phải là không có thiện-chính, nhưng vì lâu đời vậy. Cái truyền đã lâu thì cái luận sơ-lược, cái truyền gần thì cái luận tường-tận. Lược thì nói cái đại-cương, tường thì nói đủ mọi điều. Người ngu thì nghe cái đại-lược không biết cái tường, nghe cái tường không biết cái lớn. Bởi thế cho nên cái văn lâu ngày thì mất đi, cái tiết-tấu lâu ngày thì tuyệt-diệt » (Phi-tướng, V). Cứ như Tuân-tử thì bậc vương-giả phải theo cái đạo đời Tam-đại và theo phép của hậu-vương. « Đạo bất quá Tam-đại, pháp bất nhị hậu-vương 道 不 過 三 代,法 不 貳 後 王: Đạo không qua đời Tam-đại, phép không khác hậu-vương » (Vương-chế, IX), Nghĩa là đối với đời Chiến-quốc mà bàn vương-đạo thì không nên bàn quá việc nhà Hạ, nhà Ân, nhà Chu; nếu xét quá lên nữa, thì xa lắm, khó tin là xác-thực được, và dùng phép thì theo phép của vương-giả đương thế, chứ không nên lìa bỏ mà đi tìm ở chỗ xa. Đó là cái tư-tưởng đặc-biệt của Tuân-tử về đường chính-trị vậy.

Vương bá và quyền-mưu. — Trong việc chính-trị, Tuân-tử theo cái tư-trào đương thời mà chia ra làm ba lối: một là làm vương, hai là làm bá, ba là làm mất nước. « Nghĩa lập nhi vương, tín lập nhi bá, quyền mưu lập nhi vong. Tam giả minh-chủ chi sở cẩn trạch giã, nhân-nhân chi sở vụ bạch giã 義 立 而 王,信 立 而 霸,權 謀 立 而 亡.三 者 明 主 之 所 謹 擇 也,仁 人 之 所 務 白 也: Cái nghĩa mà lập thì làm vương, cái tín mà lập thì làm bá, cái quyền-mưu mà lập thì mất. Ba lối ấy, đấng minh-chủ phải chọn kỹ, người nhân phải làm cho minh-bạch vậy» Vương-bá, XI).

1. Vương đạo. — «Đem cả nước mà hô-hào làm việc lễ nghĩa và không làm điều gì hại đến lễ nghĩa. Làm một điều bất nghĩa, giết một người không có tội mà được thiên-hạ, thì kẻ nhân-giả không làm. Cứ vững giữ lòng mình và giữ nước. Được như thế thì thật là vững chắc lắm vậy. Những người cùng với mình làm việc ấy đều là nghĩa-sĩ, những hình-pháp đem bày tỏ ra cho quốc-gia, đều là pháp nghĩa. Những điều mà nhân-chủ đã thật tin và đem quần-thần qui-hướng cả về đó, đều là cái ý chú vào việc nghĩa. Như thế, thì kẻ dưới lấy nghĩa mà trông cậy người trên, ấy là cơ-bản định vậy. Cơ-bản đã định, thì nước định, nước định thì thiên-hạ định... Không bởi cớ gì khác, chỉ bởi cái cớ cố làm cho nên việc nghĩa. Ấy là việc nghĩa lập mà làm vương vậy ».

2. Bá đạo — « Đức tuy chưa đến cùng-cực, nghĩa tuy chưa nên hẳn, song cái lý của thiên-hạ cũng lược có tiết-tấu. Hình-pháp thưởng phạt làm tin cho thiên-hạ, kẻ bầy tôi ở dưới đều hiểu rõ mà biết những điều yếu-ước. Cái chính-lệnh đã bày ra thì dẫu thấy rõ điều lợi của mình hỏng, nhưng cũng không lừa dối dân; đã kết ước với nước nào, thì dẫu thấy rõ điều lợi của mình hỏng, nhưng cũng không lừa dối người. Như thế, thì binh mạnh thành bền, địch-quốc sợ mình, cả nước một nền, dân với nước đều tin. Tuy ở đất hẻo-lánh cũng có uy động cả thiên-hạ... Song không phải là hết lòng sửa cái gốc ở sự chính và sự giáo, không phải là lấy văn-lý làm căn-bản, không phải là làm cho lòng người ta phục. Làm điều gì thì xu-hướng về phương-lược, xét việc gì thì dùng cái thuật lấy dật đãi lao, nghiêm-cẩn sự súc-tích, sửa-sang việc chiến bị, trên dưới một lòng tin nhau, thiên-hạ không ai dám đương với mình. Không bởi cớ gì khác, chỉ bởi lược thủ cái tín mà làm. Ấy thế gọi là tín lập mà làm bá vậy ».

3. Vong quốc chi đạo — « Đem cả nước mà hô-hào làm công-lợi, không cần mở cái nghĩa, giữ cái tín, chỉ cốt cầu lợi. Trong thì không sợ dối dân để cầu cái lợi nhỏ, ngoài thì không sợ dối nước thân với mình để tìm cái lợi lớn. Trong không lo sửa cho ngay chính những thổ địa tài hóa của mình, mà lại muốn những thổ địa tài hóa của người, như thế thì kẻ thần-hạ và trăm họ ai chẳng lấy lòng giả dối mà đối đãi với người trên. Người trên dối người dưới, người dưới dối người trên, thế là trên dưới chia rẽ nhau ra, như thế thì địch-quốc khinh mình, mà nước thân với mình ngờ vực mình, ngày ngày dùng quyền-mưu mà nước không khỏi sự nguy biến, đến cuối cùng là nước mất... Ấy không bởi cớ gì khác, chỉ bởi không dùng lễ nghĩa mà chỉ dùng quyền-mưu vậy » (Vương-bá, XI).

Trong ba lối ấy, hễ ai khéo chọn thì giá-ngự người, không khéo chọn, thì bị người giá-ngự. Tuân-tử theo tôn-chỉ Nho-giáo, cho nên ông rất tôn-sùng vương đạo, và bày tỏ cái phương-pháp của vương-giả trị thiên-hạ ra một cách rất rõ-ràng vậy.

Phương-pháp của vương-giả. — Bậc vương-giả là người có đạo-đức hoàn-toàn, lấy điều công chính nhân nghĩa mà trị thiên-hạ. Người ấy phi là bậc thánh-nhân không giữ được ngôi thiên-tử cho xứng-đáng. Cho nên nói rằng: « Thánh-nhân bị đạo toàn mĩ giả giã, thị huyền thiên-hạ chi quyền xứng giã 聖 人 備 道 全 美 者 也,是 縣 天 下 之 權 稱 也: Thánh-nhân có cái đạo hoàn-bị, toàn-mỹ, thì mới cầm được cái cân và quả cân của thiên-hạ » (Chính-luận, XVIII). Bậc vương-giả phải sửa cái đạo làm việc nghĩa, lấy cái lợi chung của thiên-hạ, trừ cái hại chung của thiên-hạ, thì thiên-hạ theo về mình vậy» (Chính-luận, XVIII). Muốn đạt tới cái chủ-đích ấy thì phải theo phương-pháp nào? Tuân-tử nói rằng: « Dùng kẻ hiền-năng, thì không đợi phải theo thứ-tự mới cất nhắc lên; bỏ người dở thì bỏ ngay trong chốc lát, trừ kẻ nguyên-ác thì không đợi có dạy bảo rồi mới giết; theo đạo trung-dung, thì dân không đợi có chính-trị rồi mới hóa, cái phận chưa định thì phải định ngay trên dưới. Tuy con cháu bậc vương, công, sĩ, đại-phu, mà không theo lễ nghĩa thì bỏ làm thứ-nhân; con cháu thứ-nhân mà tích-tập văn-học, chính thân hạnh, theo lễ nghĩa, thì cho làm khanh, tướng, sĩ, đại-phu. Như vậy thì những gian ngôn, gian thuyết, gian sự, gian năng, đều trốn-tránh cả. Những dân phản trắc thì đặt quan dạy-dỗ, đợi cho hóa thành thiện. Lấy sự ban thưởng mà khuyến-miễn, lấy hình-phạt mà trừng-trị. Ai yên chức phận thì nuôi, ai không yên chức phận thì đày đi xa... Cái đại phận về việc thính chính là người nào lấy điều thiện mà đến, thì lấy lễ mà đãi; lấy điều bất thiện mà đến, thì lấy hình mà đãi. Hai điều ấy phân-biệt, thì kẻ hiền và kẻ bất-tiếu không lẫn, việc phải việc trái không loạn. Kẻ hiền và kẻ bất-tiếu không lẫn, thì người anh-kiệt đến, việc phải việc trái không loạn, thì quốc-gia trị. Như thế thì thanh-danh càng ngày càng vang lừng khắp thiên-hạ, ai cũng muốn theo lệnh hành cấm chỉ. Ấy là việc vương-giả hết vậy » (Vương-chế, IX).

Cái chính-sách của vương-giả là trọng người hiền, khinh người dở. Bậc vương công mà không có lễ nghĩa văn-học, thì phải truất xuống làm dân, không được giữ quyền tước, người dân mà có văn-học, biết lễ nghĩa, thì được cất nhắc lên làm khanh làm tướng. Cái quyền chính-trị trong nước để chung cả cho người tài giỏi, chứ không để riêng cho một bọn quí-tộc. Đó là thật theo đúng cái chủ-nghĩa duy-tân rất chính đáng của Nho-giáo vậy. Bậc thánh vương đời trước theo cái chủ-nghĩa ấy mà trị thiên-hạ, cho nên nói rằng: « Thánh vương tại thượng, đồ đức nhi đinh thứ, lượng năng nhi thụ quan, giai sử dân tái kỳ sự nhi các đắc kỳ nghi. Bất năng dĩ nghĩa chế lợi, bất năng dĩ ngụy sức tính, tắc kiêm dĩ vi dân 聖 王 在 上,圖 德 而 定 次,量 能 而 授 官,皆 使 民 載 其 事 而 各 得 其 宜.不 能 以 義 制 利,不 能 以 僞 飾 性,則 兼 以 爲 民: Bậc thánh vương ở trên, tìm cái đức mà định thứ bậc, lượng cái tài năng mà cho làm quan, việc gì cũng để dân gánh vác lấy, ai làm được việc nào cho làm việc ấy. Người nào không thể lấy cái nghĩa chế cái lợi, không thể cố làm để kiểu-sức cái tính ác của mình, thì bắt xuống làm dân » (Chính-luận, XVIII). Việc trị thiên-hạ mà theo đúng cái phương-pháp ấy thì không sao có sự biến-loạn.

Tại làm sao mà ta cần phải bắt-chước thánh vương? Là tại thánh vương biết rõ cái đáng quí và biết lấy cái nghĩa mà làm cho ta trông thấy rõ cái lợi lớn. Cho nên nói rằng: « Bàn cách bắt-chước thánh-vương thì biết điều mình quí vậy; lấy điều nghĩa chế điều lợi, thì biết rõ cái lợi của mình. Bàn sự biết điều mình quí, thì biết sự mình tự dưỡng vậy; biết rõ cái lợi của mình, thì khi hành-động mình biết rõ lối mà theo vậy. Hai điều ấy là cái gốc của sự thị phi, cái căn-nguyên của sự đắc thất vậy » (Quân-tử XXIV). Bậc thánh vương giữ ngôi quân, thống-trị thiên-hạ, cốt làm cho cái phận nghĩa phân-minh, trên dưới có trật tự. Cho nên nói rằng « Thánh vương ở trên, cái phận nghĩa thi-hành ra ở dưới, kẻ sĩ và đại-phu không làm những việc dâm-đãng, quan lại không làm những việc lười biếng và khinh nhờn, nhân chúng và trăm họ không có cái tục gian quái, không có cái tội trộm cướp, không dám phạm những điều cấm của vua. Thiên-hạ đều hiểu rõ là những người trộm cắp không thể làm giàu được, những đứa giặc cướp không thể thọ được, những đứa phạm điều cấm của vua không thể yên được. Theo đạo thì người ta được cái sở thích của mình, không theo đạo thì gặp cái sở ố của mình vậy » (Quân-tử, XXIV).

Hình-pháp. — Vương-giả cốt dùng lễ nghĩa để trị thiên-hạ, song nếu còn có người ngoan-ngạnh không chịu theo giáo-hóa, thì tất là phải dùng đến hình-phạt. « Phàm hình, nhân chi bản, cấm bạo ố ác, thả trưng kỳ vị giã 凡 刑,人 之 本,禁 暴 惡 惡,且 徵 其 未 也: Phàm hình pháp là cái gốc của thiên-hạ, ngăn-cấm điều bạo-ngược, ghét bỏ điều ác, là để răn những điều chưa sẩy ra » (Chính-luận, XVIII). Phạt người có tội là để khiến những kẻ gian-ác đừng làm những điều phi-pháp và sự thưởng sự phạt của vương-giả bao giờ cũng phải cho công-minh và xứng-đáng. « Dùng hình pháp mà đáng tội, thì có uy; không đáng tội thì người dưới khinh nhờn, ban thưởng tước lộc mà đáng cho kẻ hiền tài thì quí, không đáng thì không quí. Đời xưa dùng hình-pháp không quá cái tội, ban thưởng tước lộc không vượt qua cái đức, cho nên có khi giết cha mà dùng con làm tôi, giết anh mà dùng em làm tôi. Người thiện kẻ ác phân-biệt, ai nấy đều lấy cái trung-thành mà thông đạt, không bị sự khuất trệ. Ấy là để khuyên kẻ làm thiện và răn kẻ làm không thiện, hình phạt thì giảm bớt mà cái uy quyền thi-hành ra như nước chảy, chính lệnh rất phân-minh mà việc hóa đổi như thần » (Quân-tử, XXIV).

Cái lý-thuyết của Tuân-tử về đường chính-trị, tuy không trọng hình-pháp lắm, nhưng vì đã theo cái thuyết tính ác, thì cái kết-quả tự-nhiên tất phải trọng hình-pháp, thành ra cái tôn-chỉ của Nho-giáo bởi đó mà sai lầm đi mãi.

Tuân-tử là bậc đại-hiền trong Nho-giáo về cuối đời Chiến-quốc, học-vấn uyên-bác, văn lý tinh-vi. Ông thấy đạo của tiên-vương mờ tối, người đời mê hoặc về công-lợi và quyền-mưu, các tà-thuyết bí-từ làm loạn lòng người, cho nên ông cực-lực bài-bác các học-thnyết khác để làm cho sáng rõ cái đạo công-chính của thánh hiền.

Dương-Lạng 楊 倞 đời nhà Đường là người chú-thích sách Tuân-tử tối cổ hơn cả, làm bài tựa nói rằng: « Đời Chiến-quốc họ Thân, họ Thương[10], hà-ngược, lấy sự giết cả họ mà luận tội; họ Tôn, họ Ngô[11] biến-trá, giết người đầy thành. Những kẻ đàm-thuyết lại chuộng họ Thân, họ Mặc, họ Tô, họ Trương, vì thế mà đạo họ Khổng gần mất. Kẻ sĩ có chí thấy thế lấy làm đau lòng nhức óc vậy. Cho nên Mạnh Kha mở ra trước, Tuân Khanh chấn hưng ở sau. Xem cách lập ngôn, chỉ sự của Tuân-tử, lấy cái cùng-cực làm căn-bản, lấy cái yếu-trọng làm đạo-lý, bày tỏ những việc đời xưa mà chống giúp đương thế, dẹp sự rối loạn, dấy việc đạo-lý, thực là kẻ sĩ danh-thế và bực thầy của vương-giả. Sách của ông cũng có thể làm lông làm cánh cho sáu Kinh, thêm sáng cho họ Khổng, không phải như những sách của chư tử vậy. Bởi chưng Chu-công đã chế-tác ra, Trọng-Ni đã tổ-thuật lại, họ Mạnh, họ Tuân tán-thành, cốt để giữ cho bền vương-đạo một cách rất sâu rất đủ, tuy có bốn rợ giao xâm ở đời Xuân-thu, ba giường bỏ đứt ở đời Chiến-quốc, song đạo ấy vẫn không mất ».

Đó là lời phê-bình của một nhà nho-học đời Đường, đã có công xem kỹ cái học của Tuân-tử. Song ta xét cái học ấy có mấy điều rất hệ-trọng, trái với cái tôn-chỉ thuần-chính của Nho-giáo và gây thành cái kết-quả rất hại cho sự học-vấn về sau.

Một là cái học của Tuân-tử kém cái học của họ Khổng và họ Mạnh. Bởi vì ông bỏ mất cái học hình-nhi-thượng và chỉ chuyên trị cái học hình-nhi-hạ, cho nên cái học của ông tuy có vẻ tinh-tường về đường nghị-luận, nhưng vẫn không có cái lý nhất-quán là cái yếu-điểm của Nho-giáo. Một cái học chỉ biết có các cái ngọn mà không biết đến cái gốc, thì tất thế nào cũng phải chi-li, vụn-vặt, làm mất cái phần cao-siêu hoằng-đại. Điều ấy, các học-giả nên chú ý mà nhận cho kỹ, trong khi xem cái học-thuyết của Tuân-tử.

Hai là Tuân-tử kíp về sự muốn chữa cái lưu-tệ đương-thời. Thủa ấy ông thấy cái học của họ Lão, họ Trang thịnh hành lên, đem cái chủ-nghĩa hoài-nghi, lập thành cái thái-độ tiêu-cực, rất hại cho sự tiến-bộ của xã-hội. Ông bèn chủ lấy sự công-dụng mà chống lại, nhất-thiết những điều siêu-việt ra ngoài cái phạm-vi thực-dụng thiển-cận là ông bảo nên bỏ hết. Ông cho những điều như: « sung hư chi tương di dịch, kiên bạch đồng dị chi phân cách 充 虛 之 相 施[12] 易,堅 白 同 異 之 分 隔: Sự thay đổi của cái đầy cái rỗng, sự phân-cách của cái cứng cái trắng », đều là sự vô-ích cho sự học của người quân-tử. Ông lại nói ở thiên Giải-tế rằng: « Nhược phù phi phân thị phi, phi trị khúc trực, phi biện trị loạn, phi trị nhân đạo, tuy năng chi, vô ích ư nhân; bất năng vô tổn ư nhân 若 夫 非 分 是 非,非 治 曲 直,非 辨 治 亂,非 治 人 道,雖 能 之,無 益 於 人;不 能,無 損 於 人: Còn như những điều không phân sự phải trái, không trị cong ngay, không biện-biệt sự trị loạn, không trị nhân đạo, thì tuy có hay cũng không có ích gì cho người, mà không hay cũng không có tổn gì cho người ». Ông chỉ lấy sự công-dụng làm đầu, ngoài ra không thiết đến những điều cao thâm huyền viễn. Một cái học đã thiên lệch đi như thế, thật là hại cho sự học-vấn và sự tri-thức và làm thấp mất cái học của Nho-giáo.

Ba là Tuân-tử đã không đạt tới cái lý đơn-nhất siêu-việt, quán-triệt cả vũ-trụ, thì tất ông phải lấy cái lý thường làm chuẩn-đích để phê-bình và phán-đoán mọi sự. Vậy nên ông cho những điều gì không hợp cái lý ấy, không phân việc phải trái, không biện-biệt sự trị loạn. là phải bỏ đi. Song cái lý thường của ta, thì có cái vô cùng chi lý, mà sự phải trái và sự trị loạn, thì mỗi thời một khác và mỗi người hiểu ra một cách, lấy gì làm mực nhất định mà theo? Tuân-tử thấy rõ chỗ nguy-hiểm ấy, cho nên xướng lên cái thuyết: « Cố học giã giả, cố học chỉ chi giã 故 學 也 者,固 學 止 之 也: Cho nên học là vốn học cho đến chỗ thôi vậy ». Chỗ thôi ấy là chí-túc, tức là bậc thánh bậc vương. Lấy bậc thánh bậc vương làm tiêu-chuẩn cùng cực, không được vượt qua hơn nữa. Hễ ai không theo là cấm. Đó là cái phương-pháp chuyên-chế đã thấy ở cái học chính-danh vậy. Cái phương-pháp ấy thành ra cái chủ-nghĩa độc-tôn, tuy đương thời là cốt để vãn cứu cái học hoài-nghi, nhưng về sau thật là một cái trở-lực cho sự học-vấn. Nho-giáo mà sau thành ra một cái học tầm-thường, mất hết cả các cái quan-niệm cao iễn, là bởi cái kết-quả tự-nhiên của cái chủ-nghĩa hẹp-hòi về công-dụng, và cái chủ-nghĩa chuyên-chế độc-tôn.

Ta phải biết rằng những sự ứng-dụng của sự học-vấn là phải vượt qua cái lợi thiển-cận trước mắt của người thường, phải đem cái nhỡn-giới của sự học-vấn lên cao quá những cái quyền-lợi ngay một lúc, thì ta mới đạt tới những điều ca-oxa huyền-bí và mới hiểu rõ cái ứng-dụng lớn của sự học-vấn, rất cần cho sự tiến-hóa chính-đáng của xã-hội.

Muốn cho sự tiến-hóa mỗi ngày một hơn lên, thì cần phải có cái học cao viễn hoằng đại, chứ nếu đã bó-buộc nhân trí và một cái khuôn nhất-định, nhỏ hẹp không bao giờ được thay đổi, thì nhân trí còn mở-mang ra sao được? Cái lối chuyên-chế nhỏ hẹp ấy dù có lợi nữa, thì cũng chỉ lợi được một thời, mà cái hại đến mấy mươi đời.

Cái học của Tuân-tử sở dĩ kết-quả thành ra cái chủ-nghĩa hẹp-hòi về công-dụng và cái chính-sách chuyên-chế, là căn-bản ở cái thuyết tính ác. Đã cho cái tính người ta là ác, thì tất-nhiên phải dùng cái chính-sách chuyên-chế mà trừng-trị. Đó là vì Tuân-tử không đạt tới cái lý siêu-việt hình-nhi-thượng và lại kíp về việc cứu thời, cho nên mới lập ra cái thuyết ấy. Hậu-nho lấy điều ấy mà chê Tuân-tử, nhất là đến đời Tống, các nho-giả công-kích cái thuyết tính ác kịch-liệt hơn nữa, thật là không lầm vậy.

Xét kỹ về đường thực-dụng, thì Mạnh-tử và Tuân-tử, tuy mỗi người có một cái ý-kiến cao thấp khác nhau, nhưng hai người cùng theo một cái mục-đích: Mạnh-tử nói tính thiện là khuyên người ta làm điều lành, mà Tuân-tử nói tính ác là răn người ta làm điều ác. Hai ông đều có ý khuyến-miễn người ta làm điều thiện, bỏ điều ác. Nếu ta đem hai cái thuyết ấy mà so với cái nghĩa câu tính tương cận của Khổng-tử, thì thấy rõ mỗi thuyết thiên về một mặt. Nói tính thiện thì không nhận có hạng hạ-ngu, mà nói tính ác thì không nhận có bậc thượng-trí. Chẳng qua là hai ông đều bởi cái lòng giận thời ghét tục mà nói ra như thế. Tuy nhiên hai ông vẫn lấy Khổng-tử làm quyền hành, cho nên dẫu có quá và bất cập, cũng không mất cái tiếng là bậc đại-hiền trong Nho-giáo. Vậy nên từ đời Tần đời Hán đến đời Đường, các học-giả thường để Tuân-tử đứng ngang với Mạnh-tử.

Cái học của Tuân-tử, tuy về sau vẫn có thế-lực, nhưng không bằng cái học của Mạnh-tử, là vì cái học của Tuân-tử thấp và hẹp. Cũng vì thế mà sách của Mạnh-tử, thì từ xưa đã có bọn bác-sĩ truyền tập, chú-thích rõ-ràng, cho nên có nhiều người đọc. Sách của Tuân-tử thì trước nhà Đường không thấy có ai chú-thích, và lại biên đi chép lại, càng ngày càng sai lạc thêm, có chỗ thì chữ nọ viết ra chữ kia, có chỗ thì thừa ra mấy chữ, có chỗ lại thiếu đi hàng mấy câu, cú đậu hồ-đồ, mạch lạc không được phân-minh. Bởi vậy có nhiều đoạn ý nghĩa tối-tăm, làm cho ai đọc cũng chán nản, thành thử cái học của ông không được thịnh hành như cái học của Mạnh-tử.

Nay ta đã xét rõ cái học của Tuân-tử, ta có thể nói rằng cái học ấy không phải là không có giá-trị, song kẻ học-giả cần phải biết cái nên lấy, cái nên bỏ. Phần nên lấy cũng khá nhiều, mà phần nên bỏ thì có mấy điều trọng-yếu ta đã kể rõ, để ai xem thì nên chú ý mà xét cho kỹ. Bởi vì cái học của ông bỏ mất phần hình-nhi-thượng và thiên về cái thuyết tính ác, chú-trọng về đường công-dụng, cho nên về sau môn-đệ của ông là bọn Hàn Phi và Lý Tư lại càng thiên về mặt hình-pháp và mặt công-dụng rất hẹp-hòi. Đó có lẽ là vì thời thế xui khiến ra như thế, song cũng bởi cái học của Tuân-tử không đạt tới chỗ cao-siêu, và bởi họ Hàn và họ Lý học kém hơn nữa, cho nên mới bị tế-tắc về đường công lợi mà bỏ mất cái học công-chính và hoằng-đại của Khổng-giáo vậy.

  1. Lục-thuyết là sáu cái thuyết của mười-hai nhà triết-học, mà Tuân-tử đã bác ở thiên Phi-thập-nhị-tử. Mười-hai nhà triết-học ấy là Đà-Hiệu và Ngụy-Mâu, Trần-Trọng và Sử-Do, Mặc-Địch và Tống-Hình, Thân-Đáo và Điền Biền, Huệ-Thi và Đặng-Tích, Tử-Tư và Mạnh-tử.
  2. Tống-tử rằng: Nhân chi tình, dục quả, nhi giai dĩ kỷ chi tình vi đục đa 人 之 情 欲 寡,而 皆 以 己 之   爲 欲 多: Cái tình của người thì muốn ít, mà đều cho cái tình của mình làm muốn nhiều ».
  3. Người Á-đông ta ngày xưa cho nhật-thực và nguyệt-thực là có giống quái phạm vào mặt trời, mặt trăng, cho nên khi người ta thấy có nhật-thực và nguyệt-thực thì đánh trống đập mẹt, để cứu mặt trời mặt trăng.
  4. Đoạn này trong văn cũ có nhiều chữ mất. Đây theo Hồ Thích-Chi đã chỉnh lại ở trong sách Trung-quốc triết học-sử.
  5. Sung hư 充 虛 là cái học của Lão Trang, kiên bạch đồng dị 堅 白 同 異 là cái học của Huệ-Thi và Công-tôn Long, đều là cái tư tưởng thuộc về triết-học và khoa-học.
  6. Khúc-kỳ là những tên không có sẵn, phải ủy khúc kỳ hôi, mượn tiếng ma đặt ra.
  7. Chữ 端 đọc làm chữ 喘 suyễn.
  8. Đại tâm 大 心 là đem cái tâm bao-quát việc to lớn, tiểu-tâm 小 心 là đem cai tâm chú vào việc nhỏ-mọn, tức là nói cẩn-thận ở việc ấy.
  9. Sách Lễ-ký thiên Kinh-giải, XXVI, cũng có đoạn này.
  10. Thân Bất-Hại và Thương Ưởng là hai nhà chính-trị chuyên dùng hình pháp.
  11. Tôn Võ và Ngô Khởi là hai nhà binh-gia, có nhiều mưu lược.
  12. Chữ di 移 trong sách viết lầm ra chữ thi 施.