Bước tới nội dung

Truyện Kiều (bản Trương Vĩnh Ký 1911)/Kim, Vân, Kiều truyện

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
KIM, VÂN, KIỀU TRUYỆN

Tài cao thì mạng kém; được bề nầy, mất bề kia không hề cân nhau bao-giờ.

Trăm năm,[1] trong cõi người-ta,
chữ tài chữ mạng[2] khéo là ghét nhau!
Trải qua một cuộc bể dâu,[3]
những điều trông thấy đã đau-đớn lòng!
Lạ chi bỉ sắc tư phong?[4]
trời xanh quen với má hồng đánh ghen?

Tài sắc ba chị em Túy-Kiều.

Kiểu thơm[5] lần dở trước đèn,
phong tình có lúc còn truyền sử sanh.
Rằng năm Gia-tĩnh triều Minh,
bốn phương phẳng-lặng, hai kinh[6] vững-vàng;
Có nhà Viên-ngoại họ Vương,
gia-tư nghỉ cũng thường-thường bực trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương-quan là chữ nối dòng nhu-gia.

Đầu lòng hai ả Tố-nga,[7]
Túy-kiều là chị, em là Túy-vân.
Mai cốt-cách, tuyết tinh-thần,[8]
một người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang-trọng tót vời,[9]
khuôn lưng đầy-đặn, nét người nở-nang
Hoa cười ngọc thốt đoan-trang,
mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc-sảo, mặn-mà,
so bề tài sắc, lại là phần hơn.
Gương thu thủy, vít xuân sơn,[10]
hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh;
Một đôi nghiêng nước nghiêng thành,
sắc đành đòi một, tài đành hòa hai:
Thông-minh vốn sẵn tư[11] trời,
vẹn nghề thi họa, đủ nghề ca ngâm.
Cung thương làu bực năm âm,[12]
nghề riêng ăn đứt, hồ cầm[13] một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
một thiên bạc-mạng lại càng não nhân.

Thanh-minh trong tiết tháng ba, lễ là tảo mộ, gọi là đạp thanh.
Gần xa náo-nức én-anh, chị em sắm-sửa bộ hành chơi xuân.

Phong-lưu rất mực hồng-quần,
xuân-xanh xấp-xỉ tới tuần cập-kê.[14]
Ym-niềm (hay là iêm-liềm) trướng xủ màn che,
tường đông ong bướm, đi về mặc ai.

Ba chị em đi ăn thanh-minh.

Mùa xuân con én đưa thoi,
thiều-quang[15] chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chơn trời,
thành lê trắng điểm một vài bông-hoa.
Thanh-minh[16] trong tiết ngày ba.
lễ là tảo mộ, gọi là đạp thanh.
Gần xa náo-nức én-anh,
chị em sắm-sửa bộ hành chơi xuân.
Dập-dều tài tử giai-nhơn,
ngựa-xe như nước, áo-quần như nêm.[17]
Ngổn-ngang gò đống kéo lên,
thoi vàng bỏ rắc, tro tàn giấy bay.

Túy-Kiều ghé viếng mả Đạm-Tiên.

Tà-tà bóng ngã về tây,[18]
chị-em thơ-thẩn ran tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,
lần xem phong-cảnh có bề thanh-thanh.
Nao-nao dòng nước uốn quanh,
nhịp cầu nhỏ nhỏ cuối gành bước sang.
Sờ sờ nấm đất bên đàng,[19]
dàu-dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng sao trong tiết thanh minh,
mà đây hương-khói vắng-tanh thế mà?
Vương-quan mới dẫn gần xa,
Đạm-tiên nàng ấy xưa là ca nhi:[20]
Nổi danh tài sắc một thì,
xôn xao ngoài cửa hiếm gì én anh?
Kiếp hồng nhan có mong-manh,[21]
nửa chừng xuân, thoạt gãy nhành thiên-hương![22]
Có người khách ở viễn-phương,
xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi;
Thuyền tình[23] vừa ghé đến nơi,
thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ:[24]
Phòng không lạnh ngắt như tờ,
dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh;
Khóc than khôn xiết sự tình,
khéo vô duyên bấy là mình[25] với ta!

Đã không duyên trước chẳng thà,
thì chi chút đích[26] gọi là duyên sau?
Sắm-sanh níp giấy xe châu,[27]
vùi nông[28] một nắm mặc dầu cõ hoa;
Trải bao thỏ lặn ác tà,[29]
ấy mồ vô chủ, ai mà viếng-thăm?
Lòng đâu sãn mỏn thương-tâm,
thoạt nghe, Kiều đã đằm đằm châu sa.
Đau-đớn thay phận đờn-bà!
lời rằng: bạc-mạng cũng là lời chung.
Phụ-phàng chi bấy hóa-công?[30]
ngày xanh mòn-mỏi má hồng phui-pha?
Sống làm vợ khắp người-ta,
hại[31] thay thác xuống làm ma không chồng?
Nào người phụng chạ loan chung?
nào người tiếc lục tham hồng là ai ?
Đã không kẻ đoái người hoài,
sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đàng,
họa là người dưới suối vàng[32] biết cho.

Dập-dều tài-tử giai-nhơn, ngựa-xe như nước, áo-quần như nêm
Ngổn-ngang gò đống kéo lên, thoi vàng bỏ rắc, tro tàn giấy bay.

Lâm dâm khấn-vái nhỏ to,
sụt ngồi và gật[33] trước mồ bước ra;
Một vùng cỏ áy bóng tà,[34]
gió hiu-hiu thổi một và ngọn lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê-mẩn tâm thần,
lại càng đứng sửng tần-ngần chẳng ra?
Lại càng ủ-dột nết hoa,
sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài.
Vân rằng: chị, cũng nực cười
khéo dư nước mắt khóc người đời xưa?
Rằng hồng-nhan tự thuở xưa,
cái điều bạc-mạng có chừa ai đâu?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
thấy người nằm đấy biết sau thế nào?
Quan rằng: chị nói hay sao?
một điều là một vần vào khó nghe?
Ở đây âm-khí nặng-nề,
bóng chiều đã ngã, dặm về còn xa.
Kiều rằng: những đứng tài-hoa,
thác là thấy-phách,[35] còn là tinh-anh.
Dễ hay tình lại gặp tình,
chờ xem ắt thấy hiển-linh bây-giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,
phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào-ào đổ lộc rung cây,
ở trong dường có hương bay ít nhiều.

Đè chừng ngọn gió lần theo,
vít giày từng bước in rêu rành-rành.
Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
nàng rằng: nầy thực tinh thành chẳng xa:
Hữu tình ta lại biết ta,
chẳng nề u hiển mới là chị em?
Đã lòng hiển hiện cho xem,
tạ lòng nầy lại nối thêm và lời.
Lòng thơ lai-láng bồi hồi,
gốc cây lại vạch một bài cổ thi.

Túy-Kiều gặp Kim-Trọng phải lòng mình.

Dùng-dằng dở ở dở về,
lạc vàng đâu đã tiếng nghe gần-gần.
Trông chừng thấy một văn-nhân,
lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng[36]
Đề-huề lưng túi gió trăng,[37]
sau chơn theo một vài thằng con-con.
Tuyết in sắc ngựa cu don,[38]
cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.[39]
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
khách đà xuống ngựa tới nơi tự-tình.[40]
Giai-nhơn[41] lần bước dặm xanh,
một vùng như thấy cây quình nhành đao.[42]

Chàng Vương quen mặt ra chào,
hai Kiều e mặt nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh-quất đâu xa,
họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm-anh.[43]
Nền phú-hậu, bực tài-danh,[44]
văn-chương nét đất, thông-minh tánh trời.
Thiên-tư tài-mạo tót vời,
vào trong phong nhã[45] ra ngoài hào hoa.
Đông-quanh[46] vẫn nước đất nhà,
với Vương-quan trước vẫn là đồng-thân.[47]
Vẫn nghe thơm nực hương-lân,
một nền đồng-tước[48] toả xuân hai kiều.[49]
Nước non cách mấy buồng thêu,[50]
những là trộm nhớ thầm yêu chóc-mòng.
May thay giải-cấu tương phùng![51]
gặp tuần đổ lá[52] thỏa lòng tìm hoa.
Bóng hồng liếc thấy nẻo xa,
xuân lan, thu cúc mặn-mà cả hai.

Rút trâm sẵn giất mái đầu, vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần
Lại càng mê-mẩn tâm thần, lại càng đứng sửng tần-ngần chẳng ra?

Người quấc sắc, kẻ thiên tài[53]
tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Rập rình cơn tỉnh cơn mê,
rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Gió chiều như giục cơn buồn,
khách đà lên ngựa, người còn ghé theo.
Nhịp cầu dải nước trong veo,
bên cầu tơ liễu bóng chiều tha-la.[54]

Túy-Kiều về những thương Đạm-Tiên, nhớ Kim-Trọng.

Kiều từ trở gót trướng hoa,
mặt-trời lặn núi, chiêng đà thu không.
Gương nga[55] vạnh-vạnh[56] đầy song,
vàng gieo ngằn nước, cây lồng bóng sân.[57]
Hải-đường[58] rã ngọn đông lân,
giọt sương gieo nặng, nhành xuân là đà.
Đằm-đằm lặng ngắm bóng nga[59]
đon[60] đường gần với nẻo xa bời-bời.
Người mà đến thế thì thôi,
đời phiền-hoa[61] cũng là đời bỏ đi.
Người đâu gặp-gỡ làm chi?
trăm năm biết có duyên gì hay không?

Ngổn-ngang trăm mối bên lòng;
nên câu tuyệt-diệu ngụ trong tánh-tình.

Đạm-Tiên hiện chim-bao cho Tuy-Kiều biết Túy-kiều cũng phải mắc số đoạn trường.

Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,[62]
dựa loan bên triện một mình thiu-thiu.
Thoát đâu thấy một tiểu kiều,
có chìu phong-vận,[63] có chìu thanh-tân.[64]
Sương in mặt tuyết pha thân,
trên vàng[65] lững-đững như gần như xa.
Chào mừng don-hỏi dò-la,
nguồn đào lạc lối, đâu mà đến đây?
Thưa rằng: thinh khí[66] xưa nay,
mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
Hàn gia[67] ở mái tây thiên,
dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.
Mấy lòng hạ cố[68] đến nhau,
mấy lời hạ tứ[69] ném châu gieo vàng,
Vâng trình hội chủ[70] xem tường,
mà xem trong sổ đoạn-trường[71] có tên.

Âu đành quả kiếp nhơn-duyên,
cũng người một hội một thuyền đâu xa.
Nầy mười bài mới, mới ra,
câu thần lại mượn bút hoa vẽ-vời.
Kiều vâng lãnh ý đề bài,
tay tiên một vẽ, đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ thắc thỏm khen thầm,
giá đành tú khẩu cẩm tâm[72] khác thường.
Ví đem vào tập đoạn-trường,
thì treo giải nhứt, chi nhường cho ai?
Thềm hoa khách đã trở hài,
nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu trịch bức mành-mành,
tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm-bao.
Trông theo nào thấy đâu nào,
hương thùa dường hãy ra vào đâu đây?
Một mình lưỡng-lự canh chầy,
đường xa nghĩ nỗi sau nầy mà kinh.
Hoa trôi bèo giạt đã đành,
biết duyên mình, biết phận mình thế thôi.
Nỗi riêng dập-dập sóng dồi,
nghĩ đòi cơn lại sụt-sùi đòi cơn.

Bà mẹ nghe Túy-Kiều than thở thì la mà nói chiêm-bao là điều mộng-mị mà giải.

Giọng Kiều rền-rỉ trướng loan,
nhà huyên[73] chợt tỉnh hỏi can-cớ gì?
Cớ sao trằn-trọc canh khuya?
màu hoa lê hãy dầm-dề giọt mưa.

Chàng Vương quen mặt ra chào, hai Kiều e mặt nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh-quất đâu xa, họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm-anh.

Thưa rằng: chút phận ngây thơ,
dưỡng sanh đôi nợ[74] tóc tơ[75] chưa đền.
Buổi ngày chơi mả Đạm-tiên,
nhắp đi phút thấy ứng liền chiêm-bao.
Đoạn-trường là số thế nào,
bài ra thế ấy vịnh vào thế kia?
Cứ trong mộng-triệu mà suy,
phận con biết có ra gì mai sau?
Dạy rằng mộng huyển cứ đâu,
bỗng không mua não, chác sầu nghĩ nao?
Vưng lời khuyến giải thấp cao,
chưa xong điều nghĩ, lại dào mạch tương.[76]
Ngoài song thỏ thẻ anh vàng,[77]
cuối tường bông liễu bay ngang trước mành.
Hiên tà gác bóng chênh chênh,[78]
nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình.

Kim-Trọng về Liêu-Dương cứ khoăn-khoái nhớ Túy-Kiều hoài.

Cho hay là thói hữu tình,
đố ai dứt mối tơ mành[79] cho xong?
Chàng Kim từ lại thơ song,
nỗi nàng cánh-cánh[80] bên lòng biếng khuây.

Sầu đong càng khắc càng đầy,[81]
ba thu dồn lại một ngày dài ghê.[82]
Mây Tần tỏa kín song the,[83]
bụi hồng lẻo-đẻo đi về chiêm-bao.[84]
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,[85]
mặt mơ tưởng mặt. lòng ngao-ngán lòng.
Phòng văn hơi giá như đồng,
trước[86] se ngón thỏ, tơ[87] dùn phiếm loan.
Mành Tương[88] phất-phất gió đàn,
hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Vì chăng duyên nợ ba sanh,[89]
làm chi đem thói khuynh-thành trêu ngươi?

Kim-Trọng trở về kỳ-ngộ mà kiếm Túy-Kiều.

Bâng-khuâng nhớ cảnh nhớ người,
nhớ nơi kỳ-ngộ vội dời chơn đi.
Một đàng cỏ mọc xanh-rì,
nước ngâm trong-vắt thấy gì nữa đâu.
Gió chiều như khãy cơn sầu,
vi lau[90] hiu hắt như màu khảy trêu.

Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
xăm-xăm đè nẻo Lam-kiều lần sang.
Thâm nghiêm, kín cổng, cao tường,
cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.
Lơ-thơ tơ liễu buông mành,
Con anh (oanh) học nói trên nhành mỉa-mai.
Mấy lần cửa đóng then gài,
đẫy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
Chần-ngần đứng trót giờ lâu,
dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
Là nhà Ngô-việt thương-gia,
phòng không để đó người xa chưa về.
Lấy điều du học hỏi thuê
túi đờn cặp sách đề-huề dọn sang.
Có cây có đá sãn-sàng,[91]
có hiên Lãm-túy[92] nét vàng chưa phai.
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
ba sinh âu hản duyên trời chi đây.
Song hồ[93] nửa khép cánh mây,
tường đông ghé mắt ngày-ngày hằng trông,
Tấc gang động toả nguyên-phong,[94]
tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.

Kim-Trọng gặp Túy-Kiều tỏ thiệt tình mình ra, xin Tuy-Kiều có đành không thì cho biết: rồi trâm quạt đưa cho nhau làm của tin.

Những từ quán-các lân-la,
tuần trăng thấm-thoát nay đà thêm hai.

Thoát đâu thấy một tiểu kiều, có chìu phong-vận, có chìu thanh-tân.
Sương in mặt tuyết pha thân, trên vàng lửng đửng như gần như xa.

Cách tường phải buổi im trời,
dưới đào dường thấy bóng người thít-tha.
Buông kim xóc áo vội ra,
hương còn thơm-nực, người đà vắng-tanh.
Lần theo tường gấm[95] dạo quanh,
trên nhành liếc thấy một nhành kim-xoa.[96]
Ưa tay vói lấy về nhà,
nầy trong quê-các đâu mà đến đây?
Gẫm âu người ấy báu nầy,
chẳng duyên chưa dể vào tay ai cầm.
Liền tay nhắm-nhía biếng nằm,
hãy-còn thoảng-thoảng hương trầm chưa phai.
Tan sương[97] đã thấy bóng người,
quanh tường ra ý tìm-tòi ngẩn-ngơ.
Sanh đà có ý đợi-chờ,
cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng.
Xoa đâu bắt được hư-không,
biết đâu Hiệp-phố[98] mà mong châu về?
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia,
ơn lòng quân-tử sá gì của rơi.
Chiếc xoa là của mấy mươi?
mà lòng trọng ngãi khinh tài xiết bao.

Sanh rằng lân-lý ra vào,
gần đây nào phải người nào xa-xôi.
Được rày nhờ chút thơm rơi,
kể đà thiếu-nảo lòng người bấy nay.
Mấy lâu mới được một ngày,
dừng chơn gạn chút niềm tây[99] gọi là.
Vội vào thêm lấy cũa nhà,
xuyến vàng đôi chiếc, khăn là[100] một vuông.[101]
Vén mây nhón bước ngọn tường,
phải người hôm nọ rõ-ràng chăng nhe?[102]
Sượng sùng dở ý rụt-rè,[103]
kẻ nhìn tạn mặt, người e cúi đầu.
Rằng từ ngẩu-nhĩ[104] gặp nhau,
thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã dồn.
Xương mai tính đã xỏ mòn,
lần-lừa ai biết hãy-còn hôm nay.
Tháng tròn như gởi cung mây,
chằng-chằng một phận ấp cây đã liều.[105]
Tạn đây xin một hai điều,
đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?[106]

Ngần-ngừ nàng mới thưa rằng:
thói nhà băng tuyết[107] chất hàng phỉ phong.[108]
Dầu khi lá thắm chỉ hồng.[109]
nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Nặng lòng xót liễu vì hoa,
trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa.
Sanh rằng rày gió mai mưa,
ngày xuân đã dễ tình-cờ mấy khi.
Dầu chăng xét tấm tình si,[110]
thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn-vó một-hai,
cho đành rồi sẽ liệu bài mối-manh.
Khuôn-linh[111] dầu phụ tấc thành,[112]
cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
Lượng xuân dầu quyết hẹp-hòi,
công đeo-đắn[113] chẳng thiệt-thòi lắm ru?
Lặng nghe lời nói như dầu,[114]
chìu xuân dễ khiến nết thu ngại-ngùng.
Rằng trong buổi mới lạ-lùng,
nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang.

Giọng Kiều rền-rỉ trướng loan, nhà huyên chợt tỉnh hỏi can cớ gì?
Cớ sao trằn-trọc canh khuya, màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?

Đã lòng quân-tử đa mang,
một lời vưng tạc đá vàng thủy chung.
Được lời như cổi tấm lòng,
dở kim huờn[115] với khăn hồng trao tay.
Rằng trăm năm[116] cũng từ đây,
của tin gọi một chút nầy làm ghi.
Sẵn tay bả[117] quạt hoa quì,
với nhành xoa ấy tức-thì đổi trao.
Một lời vừa gắn tất giao,[118]
mái sau dường có xôn-xao tiếng người.
Vội-vàng lá rụng hoa rơi,
chàng về thơ viện, nàng dời lầu trang.
Từ phen đá biết tuổi vàng,
tình càng thấm-thía dạ càng ngẩn-ngơ.
Sông Tương một dải nông trờ,[119]
bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.
Một tường tuyết chở sương che,
tin xuân đâu dễ đi về cho năng?

Túy-kiều sửa soạn qua nhà Kim-trọng chơi vì cha mẹ đi khỏi.

Lần-lần ngày gió đêm trăng,
thưa hồng rậm lục[120] đã chừng xuân qua.
Ngày vừa sanh-nhựt ngoại gia,
trên hai đường, dưới nữa là hai em.

Tâng-bầng sắm-sửa áo xiêm,
bèn dâng một lễ xa đem tất thành.
Nhà lan thanh-vắng một mình,
gẫm cơ hội ngộ đã đành hôm-nay.
Thì trân[121] thức-thức sẵn bày,
gót sen thoát-thoát dạo ngay mái tường.
Cách hoa sẽ dắng tiếng vàng,
đưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Trách lòng hơ-hửng bấy lòng!
lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.
Những là đắp nhớ đổi sầu,
tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
Nàng rằng gió bắt mưa cầm,
đã cam tệ với tri-âm bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm-nay,
lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng.
Lần theo núi giả[122] đi vòng,
cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Sấn tay mở cửa động đào,[123]
rẽ mây trông rõ lối vào thiên-thai.[124]
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
bên lời vạn phước[125] bên lời hàn huyên.[126]
Sánh vai về chốn thơ hiên,
ngâm lời phong nguyệt,[127] nặng nguyền non sông[128].

Trên an bút giá thơ đồng,
đạm thanh một bức tranh tòng treo trên.
Phong sương được vẻ thiên nhiên,[129]
mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Sanh rằng phác họa[130] vừa rồi,
phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.
Một khi gió táp mưa sa,
khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
Khen tài nhả ngọc phun châu,[131]
nàng Ban Ả Tạ cũng đâu thế nầy.[132]
Kiếp tu xưa ví chưa dày,
bực nào đổi được giá nầy cho ngang.
Nàng rằng trộm liếc dong quang,[133]
chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.[134]
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
khuôn xanh[135] biết có vuông tròn mà hay?
Nhớ từ năm hãy thơ-ngây,
có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
ngàn thu bạc mạng một đời tài hoa.
Trông người lại nhắm đến ta,
một dày một mỏng biết là có nên.

Sanh rằng lân-lý ra vào, gần đây nào phải người nào xa-xôi?
Được rày nhờ chút thơm rơi, kể đà thiếu-nảo lòng người bấy nay.

Sanh rằng giải cấu[136] là đuyên,
xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.
Dầu đều giải kiết[137] đến đều,
thì đem vàng-đá mà liều với thân.
Đủ đều trung khúc[138] ân-cần,
lòng xuân phới-phới chén xuân tàng-tàng.[139]
Ngày vui vắn chẳng đầy gang,
trông ra ác đã ngậm gương non đoài.[140]
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
gĩa chàng nàng mới kíp dời song-sa.
Đến nhà vừa thấy tin nhà,
hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.
Cửa ngoài vội xủ rèm the,
xăm-xăm băng lối vườn khuya một mình.
Nhặt thưa gương gối đầu nhành,[141]
ngọn đèn trông thấy trướng huình hắt-hiu.
Sanh vừa dựa án thiu-thiu,
đở chìu như tỉnh đở chìu như mê.
Tiếng lên sẽ động giấc hoè,
bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng-khuâng đảnh Hiệp non Thần,[142]
còn nghi giấc mộng đêm xuân mơ-màng.
Nàng rằng khoảng vắng đêm tràng.
vì hoa cho phải đỗ đàng tìm hoa.

Bây-giờ rỏ mặt đôi ta,
biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm-bao.
Vội vàng làm lễ rước vào,
đài sen nối nến, song đào thêm hương.
Tiên[143] thề cùng thảo một chương,
tóc mây một món dao vàng một đôi.
Vầng-trăng vặc-vặc giữa trời,
đinh-ninh hai mặt một lời song-song.
Tóc tơ căn-vặn tấc lòng,
trăm năm tạc một chữ đồng[144] đến xương.
Chén hà[145] sánh giọng quình tương,[146]
dải là hương lụn, bình gương bóng lồng.[147]
Sanh rằng gió mát trăng trong,
bấy lâu nay một chút lòng chửa cam.
Giọt sương chửa nặng cầu lam,[148]
sợ lần-khân[149] quá ra sàm-sở chăng.[150]
Nàng rằng: hồng-diệp xích-thằng,
một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.

Đừng đều nguyệt nọ hoa kia,
ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.
Rằng nghe nổi tiếng cầm đài,
nước-non luống những lóng tai Chung-kỳ.[151]
Thưa rằng tiện kị sá chi?
đã lòng dạy đến dạy thì phải vưng.
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
vội-vàng Sanh đã tay nưng ngang mày.
Nàng rằng nghề mọn riêng tây,
làm chi cho nặng lòng người lắm thân.
Lựa dần dây võ dây văn,[152]
bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Khúc đâu Tư-mã hoàng cầu,[153]
nghe ra như oán như sầu phải chăng.
Kê-khang nầy khúc Quảng-lăng,[154]
một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân.[155]
Quá quan nầy khúc Chiêu-quân.[156]
nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua,
đục như tiếng suối mới sa nửa vời.

Sanh rằng phác họa vừa rồi, phẩm đề xin một vài lời them hoa.
Một khi gió táp mưa sa, khoảng trên dùng bút thảo và bốn câu.

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
tiếng mau dập-dập như trời đổ mưa.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
khiến người ngồi đấy cũng ngơ-ngẩn sầu.
Khi dựa gối khi cúi đầu,
khi gò chín khúc,[157] khi châu đôi mày.[158]
Rằng hay thì thật là hay,
nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
Lựa chi những khúc tiêu tao,[159]
chột lòng mình cũng nao-nao lòng người.
Rằng quen mất nết đi rồi,
tẻ[160] vui thôi cũng tánh trời biết sao.
Lời vàng vưng lãnh ý cao,
hoạ dần-dần bớt chút nào được không.
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Sóng tình dường đã xiêu-xiêu,
xem trong âu-yếm, có chìu lả-lơi.[161]
Thưa rằng đừng lấy làm chơi,
giẽ[162] cho thưa hết một lời đã nao.
Vỉ chi một đáo yêu đào,[163]
vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
Đã cho vào bực bố kinh,[164]
đạo tùng phu, lấy chữ trinh làm đầu.

Ra tuồng trên Bộc trong dâu,[165]
thì con người ấy ai cầu làm chi.
Phải đều ăn xổi ở thì,
tiết trăm năm nở bỏ đi một ngày.
Gẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi-Trương.[166]
Mây-mưa đánh đổ đá vàng,
quá chìu nên đã chán chường én anh.
Trong khi kết cánh trên nhành,
mà lòng rẻ-rúng[167] đã trình một bên.
Mái tây để lạnh hương nguyền,
cho duyên đằm-thắm ra duyên bỉ-bàng.[168]
Gieo thoi[169] trước chẳng giữ-giàng,[170]
để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Vội chi liễu ép hoa nài,
còn thân ắt cũng đền bồi có khi.
Thấy lời đoan chánh[171] dễ nghe,
chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
Bóng tàu[172] vừa lợt vẻ ngân.[173]
tin đâu đã đến cửa ngăn gọi vào.

Nàng thì vội trở buồng thêu,
Sanh thì rảo bước sân đào vội ra.

Kim-Trọng được tin chú ruột mất, phải về Liêu-Dương mà hộ tang.

Cửa ngoài vừa ngỏ then hoa,
gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.
Đem tim thúc phụ từ đường,
bơ-vơ lữ thấn[174] tha hương đề huề.[175]
Liêu-dương cách trở sơn khê,
xuân đường[176] kíp gọi Sanh về hộ tang.
Mắng tin xiết nỗi kinh-hoàng.
băng mình lén trước đài trang tự tình.
Gót đầu[177] mọi nỗi đinh-ninh,
nỗi nhà tang tóc[178] nỗi mình xa-xôi
Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ.
Trăng thề còn đó sờ sờ,
dám xa-xuôi mặt mà thưa-thớt lòng.
Ngoài ngàn dặm chốc ba đông,[179]
mối sầu khi gở cho xong còn chầy.
Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
cho đành lòng kẻ chơn mây cuối trời.[180]

Cửa ngoài vừa ngỏ then hoa, gia-đồng vào gởi thư nhà mới sang.
Đem tin thúc phụ từ đường, bơ-vơ lữ thấn tha hương đề huề.

Tai nghe ruột rối bời-bời,
ngần-ngừ nàng mới giải[181] lời trước sau:
Ông tơ[182] ghét bỏ chi nhau?
chưa vui sum-hiệp đã sầu chia-phui;[183]
Cùng nhau trót đã nặng lời.
dẫu thay mái tóc, dám dời lòng tơ.
Quản bao tháng đợi năm chờ,
nghĩ người ăn gió nằm mưa[184] xót thầm.
Đã nguyền đôi chữ đồng tâm,
trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.[185]
Còn non còn nước còn dài,
còn về còn nhớ đến người hôm nay.
Dùng-dằng chưa nỡ rời tay,
vầng đông[186] trông đã đứng ngay nóc nhà.

Ngại-ngùng một bước một xa,
một lời trân trọng, châu sa mấy hàng.
Buộc yên quảy gánh vội-vàng,
mối sầu sẽ[187] nữa, bước đàng chia hai.
Buồn muôn phong cảnh quê người,
đầu nhành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa.
Não người chải gió dầm mưa,
một ngày nặng gánh tương tư một ngày.
Nàng thì đứng rũ hiên tây,
chín chìu vấn-vít như vầy mối tơ.

Nhà bị hoạn nạn, Túy-Kiều lo bán mình chuộc cha.

Trông chừng khói ngớt song thưa,
hoa trôi chác thắm, liễu xơ-xác vàng.[188]
Chần-ngần rảo gót lầu trang,[189]
một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về.
Hàn huyên[190] chưa kịp tả đề,[191]
sai nha bỗng thấy bốn bề xôn-xao.
Người nách thước, kẻ tay đao,
đầu trâu mặt ngựa ào-ào như sôi.
Vơ quàng một lão một trai,[192]
một dây vô lại[193] buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,[194]
rụng rời không dệt, tan tành quả may.[195]

Đồ tế nhuyễn,[196] của riêng tây,
sạch-sành-sanh[197] quét cho đầy túi tham.
Đều đâu bay-bốc[198] ai làm,
nầy ai đơn huyển, trặt hàm bỗng nhưng.
Hỏi ra sau mới biết rằng:
phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng-hốt ngẩn-ngơ,
tiếng oan dẫy đất, án ngờ đầy mây.
Hạ từ[199] van-vái trót ngày,
điết tai lân truất, phụ tay tồi-tàn.[200]
Rường cao rút ngược dây oan,
dẫu vàng đá cũng nát gan lựa người.
Mặt trông đau-đớn rụng rời,
oan nầy còn một kêu trời những xa.
Một ngày lạ thói sai nha,[201]
làm cho khốc hại[202] chẳng qua vì tiền.
Sao cho cốt-nhục vẹn-tuyền,
trong khi ngộ biến tùng quyền[203] biết sao
Duyên hội-ngộ, đức cù-lao,
chữ tình chữ hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn,[204]
làm con trước phải đền ơn sanh thành.

Người nách thươc, kẻ tay đao; đầu trâu, mặt ngựa, ào-ào như sôi.
Vơ quàng một lão một trai, một dây vô lại buộc hai thâm tình.

Quyết tình nàng mới hạ tình.[205]
giẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Họ Chung có kẻ lại già,
cũng trong nha dịch lại là từ tâm.
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
Tính bài lót đó trọn đây,
có ba trăm lượng việc nầy mới xuôi.
Đem về tạm phú giam ngoài,
nhủ rằng qui liệu[206] trong đôi ba ngày.
Thương lòng con trẻ thơ ngây,
gặp cơn họa gió tai bay bất kỳ.
Đau lòng tử biệt sinh ly,
thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên.
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.[207]

Mã-giám-Sanh tới coi Túy-Kiều, nói dối mua về làm vợ bé.

Sự lòng ngỏ với băng nhân,[208]
tin sương đồn-đãi xa gần xôn-xao.
Gần miền có một mụ nào,
đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Hổi tên rằng Mã-giám-sanh.
hỏi quê rằng huyện Lâm-thanh cũng gần.

Quá niên giạc ngoại bốn tuần,
râu mày nhãn-nhụi[209] áo quần bảnh-bao.[210]
Trước thầy sau tớ xôn-xao,
nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghé lên ngồi tốt sẵn-sàng,
phòng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
thềm hoa một bước, giọt hoa mấy hàng.
Ngại-ngùng thẹn gió e sương,
xem hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
Mối còn vén tóc bắt tay,
nết buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Đắn-đo[211] cân sắc cân tài,
ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Mặn-nồng một vẻ một ưa,
bằng lòng khách mới tùy cơ dặt-dìu.[212]
Rằng mua ngọc đến Lam-kiều,
sính nghi xin dạy bao nhiêu đấy chường.
Mối rằng đáng giá ngàn vàng,
rấp nhà nhờ lượng người thương dám nài.
Cò-kè bớt một thêm hai,
giờ lâu ngã giá vưng ngoài bốn trăm.
Một lời thuyền đã êm dằm,
hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.
Định kỳ nạp thể vu qui,[213]
tiền lưng đã có việc gì chẳng xong?

Lo hạc vàng lãnh Vương-ông ra rồi. Vương-ông hay Túy-Kiều bán mình lấy tiền chuộc tội cho mình, thì than khóc vật đầu vào tường. Túy-Kiều khuyên giải hết lời cùng dặn cha mẹ cho em là Túy-Vân thế cho mình, vì đã có thề nguyền với Kim-Trọng.

Một lời cậy với Chung-công,
khất tờ tạm lãnh Vương ông về nhà.
Thương tình con trẻ cha già,
nhìn nàng, ông đã máu sa ruột xàu:
Nuôi con những ước về sau,
trao tơ[214] phải lứa, gieo cầu đáng nơi.[215]
Trời làm chi cực bấy trời!
nầy ai vu thác cho người hiệp tan?
Búa dao bao quản thân tàn,
nỡ đày-đọa trẻ, càng oan khốc già.
Một lần sau trước cũng ra,
thôi thì mặt khuất, chẳng thà lòng đau.
Nhiều lời như chả dòng châu,
liều mình ông đã gieo đầu tường vôi.
Vội-vàng kẻ giữ người coi,
nhỏ lo nàng lại tìm lời khuyên can.

Mặn-nồng một vẻ một ưa, bằng lòng khách mới tùy cơ dặt-dìu.
Rằng mua ngọc đến Lam-kiều, sính nghi xin dạy bao nhiêu đấy chường.

Vỉ chi một mảnh hồng nhan.[216]
tóc tơ chưa chút đền ơn sanh thành.
Dâng thơ đã thẹn Nàng-Oanh.[217]
lại thua Ẳ-lý bán mình hay sao?[218]
Xuân huyên[219] tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu nhành?
Lòng thơ dầu chẳng dứt tình,
gió mây âu hản tan-tành nước non.
Thà rằng liều một thân con.
hoa dầu rã cánh, lá còn xanh cây.
Phận sao đành vậy cũng vầy,
cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.
Cũng đừng tính quất lo quanh,
tan nhà là một. thiệt mình là hai.
Phải lời ông cũng êm tai,
hìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.[220]
Mái ngoài họ vừa sang,
tờ hoa đã ký cân vàng mới trao.
Trăng-già[221] độc-địa làm sao;
cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự-nhiên.

Trong tay đã sẵn đồng tiền,
dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì?
Họ Chung ra sức giúp vì,
lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong.
Một nhà đã tiện thong dong,
tinh kỳ[222] giục giả đã mong độ về.
Một mình nương ngọn đèn khuya,
áo dầm giọt lụy, tóc xe mối sầu.
Phận dầu dầu vậy cũng dầu,
xót lòng đeo-đứng bấy lâu một lời.
Công-trình kể biết mấy mươi?
vì ta khăng-khít[223] cho người dỡ dang.
Thề lòng chưa ráo chén vàng
lỗi thề thôi đã phụ-phàng với hoa.
Trời Liêu[224] non nước bao xa,
nghĩ đâu rẽ cửa, phân nhà từ tôi.
Biết bao duyên nợ thề bồi,
kiếp nầy thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sanh chưa dứt nhang thề,
làm thân trâu ngựa, đền nghì trước-mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
khối-tình[225] mang xuống tuyền đài[226] chưa tan.

Nỗi riêng riêng những bàng-hoàng,
dầu chong trắng đĩa, lụy tràn thấm khăn.
Túy-vân chợt tỉnh giấc xuân,
dưới đèn ghé đến, ân-cần hỏi han:
Cơ trời dâu bể đa đoan,
một nhà để chị riêng oan một mình.
Cớ chi ngồi những tàn canh,
nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?
Rằng: lòng đương thổn-thức đầy,
tơ duyên còn vướng mối nầy chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn-thùng,
để lòng, thì phụ tấm lòng với ai.
Cậy em, em có chịu lời,
ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đàng đứt gánh tương tư,[227]
keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề:
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
hiếu tình có nhẽ[228] hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
xót tình máu-mủ, thay lời nước non.
Chị dầu thịt nát xương mòn,
ngậm cười chín suối[229] hảy còn thơm lây.
Chiếc vành với bức tờ mây,
duyên nầy thì giữ, vật nầy của chung.
Dầu em nên vợ nên chồng,
xót người mạng bạc, ắt lòng chớ quên.

Cậy em, em có chịu lời, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đàng đứt gánh tương tư, keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Mất người còn chút của tin,
phím đờn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dầu đến bao giờ,
đốt lò hương ấy, đỡ tơ phím nầy.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
thấy hiu hắt gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
nát thân bồ liễu đền nghì trước mai.[230]
Dạ đài cách mặt khuất lời,
chứa-chan giọt lụy cho người thác oan;
Bây-giờ trâm gãy bình tan,
kể làm sao xiết muôn vàn ái ân?
Trăm ngàn gởi lạy tình quân,
tóc tơ vắn vỏi có ngằn ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi,[231]
đã đành nước chảy hoa trôi lỡ-làng.
Ôi Kim-lang, hỡi Kim-lang.
thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Cạn lời hồn ngất máu say,
một hơi lặng ngắt, đôi tay lạnh đồng.
Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng,
một nhà chật ních kẻ trong người ngoài.
Kẻ thang người thuốc bời-bời,
mới dầu cơn vậng chửa phai giọt hồng.
Hỏi sao ra sự lạ-lùng,
Kiều càng nức-nỡ[232] mở không ra lời.
Nỗi nàng Vân mới dỉ tai,
chiếc vành đây với tờ-bồi ở đây.

Nầy cha làm lỗi duyên mầy,
thôi thì nỗi ấy sau nầy đã em.
Vì ai rụng cải rơi kim,[233]
để con bèo nổi mây chìm vì ai?
Lời con nhủ lại một hai,
dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng.
Lạy rồi nàng lại thưa chường,
nhờ cha giả được nghĩa chàng cho xuôi.
Sá chi thân phận tôi đòi,
dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu.[234]

Mã-giám-Sanh rước Túy-Kiều về nhà trọ. — Túy-Kiều buồn chí, cầm đao muốn đâm họng mà chết đi cho rồi; rồi nghĩ lại, lại thôi đi.

Xiết bao kể nỗi thảm-sầu,
khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
quản huyền[235] đâu lại giục người sinh ly.
Đau lòng kẻ ở người đi,
lụy rơi thấm đá, tơ chia rã tằm.
Trời hôm mây kéo tối dầm,
dầu dầu ngọn cỏ đằm-đằm nhành sương.
Rước nàng về đến trú phường,[236]
bốn bề xuân toả một nàng ở trong.
Ngập-ngừng thẹn lộc e hồng,
nghĩ lòng lại xót-xa lòng đòi phen.

Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
hoài công[237] nắng giữ mưa gìn với ai.
Biết thân đến bước lạc-lài,
nhụy đào đã bẻ cho người tình chung.[238]
Vì ai ngăn đón gió đông,
thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi.
Trùng phùng[239] dầu họa có khi,
thân nầy thôi có còn gì mà mong?
Đã sinh ra số long-đong,
còn mang lấy kiếp má hồng đặng sao.
Trên án sẵn có con dao,
giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn.
Phòng khi nước đã đến chơn,
dao nầy thì liệu với thân phận nầy.
Đêm sầu một khắc một chầy,
bâng-khuâng như tỉnh như say một mình.
Chẳng ngờ gã Mã-giám-sinh,
vẫn là một đứa phong tình[240] đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi đen,
quen vùng lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.[241]
Lầu xanh[242] có mụ Tú-bà,
làng chơi[243] đã trở về già hết duyên.

Xe châu dừng bánh cửa ngoài, rèm trong đã thấy một người bước ra
Thoát trông lợt-lợt màu da, ăn chi cao lớn đẫy-đà làm sao!

Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
mạt cưa mướp đắng[244] đôi bên một phường.
Chung lưng mở một ngôi hàng[245]
quanh năm buôn phấn bán hương đã lề[246]
Dạo tìm khắp chợ thì quê,
giả danh hầu-hạ dạy nghề ăn-chơi.
Rủi may âu cũng sự trời,
đoạn trường lại chọn một người vô duyên.
Xót nàng chút phận thuyền quyên,[247]
nhành hoa đem bán vào thuyền lái-buôn.
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,[248]
sính nghi nạp giá nghinh hôn sẵn ngày.
Mừng thầm cờ đã đến tay,
càng nhìn vẽ ngọc, càng say khúc hoàng.
Đã nên quốc sắc thiên hương,
một cười nầy hản ngàn vàng chẳng ngoa.
Về đây nước trước bể hoa,
vương tôn quí khách, ắt là đua nhau.
Ba bốn trăm lượng thử đâu,
cũng là vừa vốn, còn sau thì lời,
Miếng ngon kề đến tận nơi,
vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham.
Đào tiên đã bén tay phàm,
thì vin nhành quít cho cam sự đời.

Dưới trần mấy mặt làng-chơi,
chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa?
Nước vỏ lựu máu mồng gà,[249]
mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.[250]
Mập-mờ đánh-lận con đen,[251]
bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi.
Mụ già hoặc có đều gì,
liều công mất một buổi quì mà-thôi.
Đến đây đường-sá xa-xuôi,
mà ta bất động nữa người sanh nghi.
Tiếc thay một đóa trà-mi,
con ong đã mở đàng đi lối về.[252]
Một cơn mưa gió nặng-nề,
thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương?
Tiệc xuân một giấc mơ-màng,
đuốc hoa để đó một nàng ngồi trơ.
Nỗi riêng tầm-tả[253] tuôn mưa,
Phần e nỗi khách, phần lo nổi mình.
Tuồng chi là giống hôi-tanh?
thân ngàn vàng để ô danh má hồng.
Thôi còn chi nữa mà mong,
đời người thôi thế là xong một đời.

Giận duyên tủi phận bời-bời,[254]
cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh.[255]
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
một mình thì chớ, hai tình[256] thì sao?
Sao dầu sinh sự thể nào,
truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân?
Nỗi mình âu cũng giãn dần,[257]
kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi.

Mã-giám-Sanh đem Túy-Kiều về Lâm-Tri, giao cho Tú-bà. Tú-bà bắt Túy-Kiều vô lạy làm lể tiên-sư lầu-xanh, Túy-Kiều liều thân lấy đao đâm họng, ngã chết ngất mê thấy Đạm-Tiên hiện nói số đoạn trường trốn không khỏi đặng, Túy-Kiều tỉnh lại Tú-bà theo dỗ ngọt.

Những là đo-đắn ngược-xuôi,
tiếng gà nghe đã gáy thôi mái tường.
Lầu mai[258] vừa lúc còi sương,
Mã-sinh giục giã vội-vàng ra đi.
Đoạn trường thay, lúc phân kỳ![259]
vó cu khấp-khảnh bóng xe gập-ghềnh.
Bề ngoài mười dặm trường đình,[260]
Vương-ông gánh tiệc tiễn hành[261] đưa theo;

Thôi thì thôi có tiếc chi, sẵn dao tay áo tức thì dở ra.
Sợ gan nát ngọc liều hoa, mụ còn trông mặt, nàng đà quá tay.

Ngoài thì chủ khách dập-dều,
một nhà huyên với một Kiều ở trong.
Nhìn càng lã-chã giọt hồng,
dỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao.
Hổ sanh ra phận thơ đào,
công cha ngãi mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ-làng nước đục vùi trong,
trăm năm để mót tấm lòng từ đây.
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.
Khi về bỏ vắng trong nhà,
khi vào dùi-thẳng khi ra vội-vàng.
Khi ăn khi nói lỡ-làng,
khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.
Khác màu kẻ quí người thanh,
gẫm ra cho kĩ như hình con buôn.
Thôi con còn nói chi con?
sống nhờ đất khách, thác chôn quê người!
Vương-bà nghe bấy nhiêu lời,
tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
Vài tuần chửa cạn chén khuyên,[262]
mái ngoài nghĩ đã giục liền ruổi xe.
Xót con lòng nặng bè-bè,
trước yên ông đã nằn-nì thấp cao.
Xót con liễu yếu thơ đào,
rấp nhà đến nỗi chen vào tôi ngươi!
Từ đây góc biển ven trời,
nắng mưa thủi thủi,[263] quê người một thân.

Ngàn tầm nhờ bóng tùng quân,[264]
tuyết sương che chở cho thân cát đằng.
Cạn lời khách mới thưa rằng:
buộc chơn thôi cũng xích thằng nhiệm sao;
Mai sau dầu đến thể nào,
kìa gương nhựt nguyệt nọ dao quỉ thần.[265]
Đùng-đùng gió hiệp mây tần,[266]
một xe trong cỏi hồng trần như bay.[267]
Trông vơi bặt lụy phân tay,
góc trời thẳm-thẳm, ngày ngày đăm đăm.[268]
Nàng thì cõi khách xa-xăm,[269]
bạc phau cầu giá, chơn dầm ngàn mây.[270]
Bờ lau sát-sát hơi mai,[271]
một trời thu để riêng tây một người.
Dặm khuya-ngớt tạnh mù khơi,
thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Lầu thu tầng biếc úa hồng,
nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Những là lạ nước lạ non,
Lâm-tri vừa một tháng tròn tới nơi.
Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
rèm trong đã thấy một người bước ra.

Thoát trông lợt lợt màu da,
ăn chi cao lớn đẫy-đà làm sao!
Trước xe hớn-hở han-chào,
vưng lời nàng mới bước vào tận nơi.
Bên thì mấy ả mày ngài,[272]
bên thì ngồi bốn năm người làng soi.[273]
Giữa thì hương nến hẳn-hoi,
trên treo một tượng trắng đôi lông mày.[274]
Lầu xanh quen lối xưa nay,
nghề nầy thì lấy ông nầy tiên sư.
Hương hôm hoa sớm phượng-thờ.
cô nào xấu vía có thưa mối hàng.
Cổi xiêm lột áo chán-chường,
trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm-dầm.
Nệm hoa lót xuống chiếu nằm,
bướm ong bay lại ầm-ầm tứ vi.
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng buôn-bán cho may,
đêm-đêm hàn thực,[275] ngày-ngày nguyên tiêu.[276]
Muôn ngàn người thấy cũng yêu,
xôn-xao anh én dập-diều trước-mai.
Tin ve vạch lá thơ bài,
đưa người cửa trước, rước người cửa sau?

Nghĩ rằng cũng vẻ thơ hương, hỏi ra mới biết rằng chàng Sở-khanh.
Bóng hoa thấp-thoảng dưới mành, trông chàng nàng cũng ra tình đeo-đai.

Lạ tai nghe chửa biết đâu,
xem tình ra cũng những màu dỡ-dang.
Lễ xong hương hỏa gia đường,
Tú-Bà vắt nhục[277] lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng con lạy mẹ đây,
lạy rồi thì lạy cậu mầy bên kia.
Nàng rằng: phải bước lưu-ly,
phận hèn vưng đã cam bề tiểu tinh;[278]
Đều đâu lấy én làm anh?
ngây-thơ chẳng biết là danh phận gì;
Đủ đều nạp thể vu qui,
đã khi chung chạ, lại khi đứng ngồi;
Giờ ra thay bực đổi ngôi,
dám xin gởi lại một lời cho minh.
Mụ nghe nàng nói hay tình,
bây-giờ mới nổi tam bành[279] mụ lên:
Nầy nầy sự đã quả nhiên,
thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!
Bảo thì đi dạo lấy người,
đem về rước khách lấy lời mà ăn.
Tuồng vô ngãi ở vô nhơn,
buồn mình trước đã tằn-mằn thử chơi!
Màu hồ đã mất đi rồi,
thôi-thôi vốn-liếng đi đời nhà ma!

Con kia đã bán cho ta,
nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có dỡ bài-bây,[280]
chẳng phang vào mặt, thì mầy đừng nghe.
Cớ sao chịu trót một bề,
gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
Phải làm cho biết phép tao:
giựt bì tiên[281] rắp sấn vào ra tay.
Nàng rằng: trời thẳm đất dày!
thân nầy đã bỏ những ngày ra đi.
Thôi thì thôi có tiếc chi,
sẵn dao tay áo tức-thì dỡ ra.
Sợ gan nát ngọc liều hoa,
mụ còn trông mặt, nàng đà quá tay.
Thương ôi tài sắc mực nầy!
một dao oan nghiệt đứt dây phong trần!
Nỗi oan vỡ-lở xa gần,
trong nhà người chật một lần như nêm.
Nàng thì bặt-bặt giấc tiên,
mụ thì mịt-mịt mặt nhìn hồn bay.
Vực nàng vào chốn hiên tây,
cắt người xem-xóc, chạy thầy thuốc thang.
Nào hay chửa hết trần duyên,
trong mây dường đã đứng bên một nàng.
Dỉ rằng: nhân quả dở dang,[282]
đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?
Số còn nặng nghiệp má đào,
người dầu muốn quyết trời nào đã cho?

Hãy xin hết kiếp liễu bồ,[283]
sông Tiền-đường sẽ hẹn hò về sau.
Thuốc-thang trót một ngày thâu,
giấc mê nghe đã dầu-dầu vừa tan.
Tú-bà chực sẵn bên màn,
gieo lời khuyên giải mên-man gỡ dần:
Một người đễ có mấy thân?
hoa xuân đang nhụy, ngày xuân còn dài;
Cũng là lỡ một lầm hai,
đá vàng sao nở ép nài mưa mây;
Lỡ chơn trót đã vào đây,
khóa buồn xuân, để đợi ngày đào non:
Người còn thì của hãy còn,
tìm nơi xứng đáng là con cái nhà.
Làm chi tội báo oan gia,
thiệt mình mà hại đến ta hay gì?
Kề tai mấy nổi nằn-nì,
nàng nghe dường cũng thị phi rạch-ròi.
Vả suy thần mộng mấy lời,
túc khiên[284] thì cũng có trời ở trong.
Kiếp nầy nợ trả chửa xong,
làm chi thì cũng một chồng kiếp sau.
Lặng nghe đằm-thắm gót đầu,
thưa rằng: ai có muốn đâu thể nầy?
Được như lời thế là may,
hẳn rằng mai có như rày cho chăng?

Cũng liều nhắm mắt sẩy chơn, mà xem con tạo xây vần đến đâu.
Cùng nhau lẻn bước dưới lầu, song song ngựa trước ngựa sau một đoàn.

Sợ khi ong bướm đãi-đằng,
đến đều sống đục, sao bằng thác trong.
Mụ rằng: con hãy thong-dong,
phải đều lòng lại dối lòng mà chơi?
Mai sau ở chẳng như lời,
trên đầu có bóng mặt trời sáng soi.
Thấy lời quyết đoán hẳn-hòi,
đành lòng nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.

Túy-Kiều than thở nhớ nhà.

Trước sau ngừng biếc tỏa xuân,[285]
vít non xa tấm trăng gần ở chung.[286]
Bốn bề bát-ngát xa trông,
cát vàng cồn nọ, doi hồng dặm kia.
Bĩ bàng mây sớm đèn khuya,
nhớ tình nhớ cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
tin sương luống hãy rày trông mài chờ.
Bên trời góc biển bơ-vơ,
tấm son gụt rửa bao giờ cho phai?
Xót người dựa cửa hôm mai,[287]
quạt nồng đắp lạnh, những ai đó chừ?
Bồng lai[288] cách mấy nắng mưa,
có khi gốc tử đã vừa người ôm.[289]

Buồn trông cửa biển gần hôm,
thuyền ai thấp-thoảng cánh buồm xa-xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa
hoa trôi man-mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu-dàu,
chơn mây mặt đất một màu xanh-xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt gành.
om-sòm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Túy-Kiều bị Sở-Khanh gạt dổ đem đi.

Đông-quanh những nước non người,
đau lòng lưu-lạc, nên vài bốn câu.
Ngậm-ngùi xủ bức rèm châu,
cách lầu nghe có tiếng đâu hòa vần.
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
hình-dung chai-chuốt[290] áo khăn dịu-dàng.
Nghĩ rằng cũng vẻ thơ hương,[291]
hỏi ra mới biết rằng chàng Sở-khanh,
Bóng hoa thấp-thoảng dưới mành,
trông chàng nàng cũng ra tình đeo-đai.[292]
Than ôi sắc nước hương trời,
tiếc cho đâu bỗng lạc-loài đến đây!
Giá đành trong nguyệt trên mây,
hoa sao hoa khéo đã-đày[293] bấy hoa.
Nổi cơn riêng giận trời già,
lòng nầy ai tỏ cho ta hỡi lòng!

Thuyền quyên ví biết anh-hùng,
ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi.
Song thưa đã khép cánh ngoài,
tai còn đồng vọng[294] mấy lời sắt đinh.[295]
Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
cám lòng chua-xót tạ tình bơ-vơ.
Những là lần-lữa nắng mưa,
kiếp phong trần biết bao giờ là thôi?
Đánh liều nhắn một đôi lời,
nhờ tay tế độ[296] vớt người trầm luân.
Mảnh tiên[297] kể hết xa gần,
nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc-loài,
Tan sương vừa rạng ngày mai,
cánh hồng nàng mới nhắn lời gởi sang.
Trời tây lửng-đửng bóng vàng,[298]
phục thơ đã thấy tin chàng tới nơi.
Mở xem một bức tiên mai,
rành-rành: tích việt[299] có hai chữ đề.
Lấy trong ý-tứ mà suy,
ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
Chim hôm thôi thoát về rừng,[300]
đoá trà-mi đã ngậm trăng nửa mành.[301]

Một đoàn đua đến trước sau, vút đâu xuống đất, cánh đâu lên trời?
Tú-bà tốc thẳng đến nơi, ầm-ầm áp điệu một hơi lại nhà.

Tường đông lay-động bóng nhành,
rẽ song đã thấy Sở-khanh bước vào.
Sượng-sùng đánh dạn ra chào
lạy thôi nàng mới dỉ trao ân-cần,
Rằng: tôi bèo bọt chút thân,
lạc đàng mang lấy nợ-nần én-anh.
Dám nhờ cốt nhục tử sanh,[302]
còn nhiều kết cỏ ngậm vành[303] về sau.
Lặng ngồi thầmngẩm gặt đầu,
ta đây phải mượn ai đâu mà rằng.
Nàng đà biết đến ta chăng,
biển trầm luân[304] lấp cho bằng mới thôi.

Nàng rằng: muôn sự ơn người,
thế nào xin quyết một lời cho xong.
Rằng ta có ngựa truy phong,[305]
có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi.[306]
Thừa cơ lén bước ra đi,
ba mươi sáu chước, chước gì lại hơn.
Dầu khi gió kép mưa đơn,
có ta đây cũng chẳng can-cớ gì?
Nghe lời nàng đã sinh nghi,
song đà quá đất, quản gì đến thân.
Cũng liều nhắm mắt sẩy chơn,
mà xem con tạo[307] xây vần đến đâu.
Cùng nhau lén bước dưới lầu,
song song ngựa trước ngựa sau một đoàn.
Đêm thâu khắc mãn canh tàn,
gió cây lọt lá trăng ngàn ngậm gương.[308]
Lối mòn cỏ lợt màu sương,
lòng quê đi một bước đường một đau.
Tiếng gà eo-óc gáy mau,
tiếng người đâu đã mái sau dậy-dàn.[309]
Nàng càng thốn thức gan vàng,
Sở-khanh đã rẽ dây-cương nẻo nào.
Một mình không biết làm sao,
dặm rừng bước thấp bước cao hãi-hùng.

Túy-Kiều bị Tú-bà theo bắt lại được, đem vô ở thanh lâu ba năm.

Hóa nhi[310] thật có nợ lòng,
làm chi giày tía vò hồng lắm nao!
Một đoàn đua đến trước sau,
vút đâu xuống đất, cánh đâu lên trời?
Tú-bà tốc thẳng đến nơi,
ầm ầm áp điệu[311] một hơi lại nhà.
Hưng-hành[312] chẳng hỏi chẳng tra,
quá tay vùi liễu dập hoa tơi bời.[313]
Thịt da ai cũng là người,
lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau?
Hết lời thú phục khẩn cầu,
uốn lưng núi đổ, giập đầu máu sa.[314]
Rằng: tôi chút phận đàn-bà,
nước non lìa cửa lìa nhà đến đây.
Bây-giờ sống chết ở tay,
thân nầy đã đến thế nầy thì thôi.
Nhưng tôi có sá chi tôi,
phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?[315]
Thân lươn bao quản lấm đầu,[316]
chút lòng trinh bạch từ sau cũng chừa.
Được lời mụ mới tùy cơ,
bắt người bảo-lãnh làm tờ cung-chiêu.

Thương sao cho vẹn thì thương, tính sao cho trọn mọi đường thì vâng.
Sanh rằng: hay nói đè chừng, lòng đây, lòng đấy chưa từng hay sao?

Bày vai có ả Mã-kiều,
xót nàng ra mới đánh liều chịu đoan.
Mụ càng kể nhặt kể khoan,
gạn-gùng đến mực, nồng-nàn mới tha.
Vực nàng vào nghĩ trong nhà,
Mã-kiều lại hở ý ra dặn lời:
Thôi đà mắc lận thì thôi
đi đâu chẳng biết con người Sở-khanh?
Phụ tình nỗi tiếng lầu xanh,
một tay chôn biết mấy nhành phù-dung.
Đà đao[317] sắp sẵn chước dùng,
lạ chi một cốt một đồng[318] xưa nay,
Có ba trăm lạng trao tay,
không nhưng sao có chuyện nầy trò kia?
Rồi ra trở mặt tức-thì,
bớt lời kêu chớ lay chi mà đời,
Nàng rằng thề-thốt nặng lời,
có đâu mà lại ra lời hiểm-sâu?
Còn đang suy trước nghĩ sau,
mặt mo[319] đã thấy ở đâu dẫn vào.
Sở-khanh lên tiếng rêu-rao,
độ nghe rằng có con nào ở đây.
Phao cho quến gió rủ mây,
hãy xem có biết mặt nầy là ai?
Nàng rằng: thôi thế thì thôi,
Rằng không thì cũng vưng lời rằng không.

Sở-khanh khoác-mắng đùng-đùng,
sấn vào vừa rắp thị hùng ra tay.
Nàng rằng: trời nhẽ có hay!
quến anh rủ én sự nầy tại ai ?
Đem người giẩy[320] xuống giếng thơi,[321]
nói rồi rồi lại ăn lời được ngay!
Còn tiên tích viẹt ở tay
rõ-ràng mặt ấy mạt nầy chơ ai?
Lời ngay đông mặt trong ngoài,
kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương.
Phụ tình án đã rõ-ràng,
dơ tuồng nghĩ mới kiếm đàng tháo lui.
Trách thầm riêng những sụt-sùi,
nghĩ thân mà lại ngậm-ngùi cho thân.
Tiếc thay trong giá trắng ngần!
đến phong trần cũng phong trần[322] như ai.
Tẻ vui cũng một kiếp người,
hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?[323]
Kiếp xưa đã vụng đàng tu,
kiếp nầy chẳng kẻo đền bồ mới xuôi.
Dầu sao bình đã vỡ rồi,
lấy thân mà trả nợ đời cho xong.
Vừa tuần nguyệt rạng gương trong,[324]
Tú-bà ghé lại thong-dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm công phu,
làng chơi ta phải biết cho đủ đều.

Nàng rằng: mưa gió dập-diều,
liều thân thì cũng phải liều thế thôi.
Mụ rằng: ai cũng như ai,
người ta ai mất tiền hoài đến đây?
Ở trong còn lắm đều hay,
nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.[325]
Nầy con thuộc lấy làm lòng,
vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề[326].
Chơi cho liễu chán hoa chê,
cho lăn-lóc đá cho mê mẩn đời.
Khi nghe hạnh, khi nết ngời,[327]
khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười-cợt hoa.
Đều là nghề-nghiệp trong nhà,
đủ ngằn ấy nết, mới là người chơi.
Cúi đầu vưng dạy mấy lời,
dường châu nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.[328]
Những nghe nói đã thẹn thùng,
nước đời lắm nỗi lạ-lùng khắt khe.[329]
Xót mình cửa các phòng quê,[330]
dở lòng học lấy những nghề nghiệp hay.

Trông lên mặt sắt đen sì, sắp uy trước đã ra uy nặng lời:
Gã kia dại nết chơi-bời, mà con người ấy là người đong-đưa

Khéo là mặt dạn mày dày,
kiếp người đã đến thế nầy thì thôi.
Thương thay thân-phận lạc loài,
dẫu sao cũng ở tay người biết sao.
Lầu xanh mới xủ trướng đào,[331]
càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Biết bao bướm rã ong rời,
cuộc say đầy tháng,[332] trận cười trót đêm.
Dập diều lá gió nhành chim,[333]
sớm đưa Tống-ngọc, tối tìm Trường-khanh.[334]
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
giựt mình mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm xủ là,
giờ sao tan-tác như hoa giữa đường?[335]
Mặt sao dày gió dạn sương,
thân sao bướm chán, ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
nhưng mình nào có biết xuân là gì?

Đòi phen gió dựa hoa kề,
nửa mành tuyết ngậm, bốn hè trăng thâu.[336]
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa![337]
Vui là vui gượn kẻo là,
ai tri âm đó, mặn mà với ai?
Thừa-ưa gió trước mưa mai,
ngẩn-ngơ trăm nỗi, giồi mài một thân.
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau.
Nhớ ơn chín chữ cao sâu,[338]
một ngày một ngã bóng dâu tà-tà.[339]
Dặm ngàn nước thẳm non xa,
nghĩ đâu thân phận con ra thế nầy!
Sân hòe[340] đôi chút thơ-ngây,
trân cam[341] ai kẻ đỡ thay việc mình?

Nhớ lời nguyền-ước ba sinh,
xa-xuôi ai có biết tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu chương đài,[342]
nhành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
Tình sâu mong trả ngãi dày,
hoa kia đã chắp cây nầy cho chưa?[343]
Mối tình đòi đoạn vò tơ,
giấc hương quan[344] luống những mơ canh dài.
Song sa võ-võ phương trời,
nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.[345]
Lần-lần thỏ bạc ác vàng,[346]
xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn.[347]
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!
Đã đày vào kiếp phong trần,
sao cho sỉ-nhục một lần mới thôi.

Túy-Kiều gặp Thúc-Sanh cưới về làm vợ bé. Thúc-ông giận đi thưa quan, bị đòn rồi sau lại cho hiệp lại với nhau ba năm ở với Thúc-Sanh hằng giục Thúc-Sanh thú với vợ chánh. Thúc-Sanh về. Túy-Kiều ở làm dâu Thúc-ông ba năm.

Khách du bổng có một người,
Kỳ-tâm họ Thúc cũng loài thơ hương.

Thương nhau xin nhớ lời nhau, năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
Chén đưa nhớ bữa hôm nay, chén mầng xin đợi bữa nầy năm sau.

Vốn người huyện Tích châu Thường,
theo nghiêm thân mở ngôi hàng[348] Lâm tri.
Hoa khôi[349] mộ tiếng Kiều-nhi,
thiếp hồng[350] tìm đến hương quê[351] gởi vào.
Trướng Tô[352] hiệp mặt hoa đào,
vẻ nào chẳng mặn, nết nào chăng ưa?
Hải đường[353] mởn-mởn nhành tơ,
ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt nảo nùng,
đêm xuân ai dễ cầm lòng đặng chăng?
Lạ chi thanh khí[354] lẽ hằng,
một dây đã buộc ai giằng[355] cho ra?
Sớm đào tối mận lân la,
trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
Dịp đâu may-mắn lạ dường!
lại vừa gặp khoảng xuân đường về quê.
Sanh càng một tỉnh mười mê,
ngày xuân lắm lúc quên về với xuân.
Khi gió các, khi trăng sân,
bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ.
Khi hương sớm, khi mây trưa,
bàn vây đếm nước, đường tơ hòa đờn.

Mập-mờ trong cuộc truy hoan,[356]
càng quen thuộc nết, càng dan-díu[357] tình.
Lạ cho cái sóng khuinh thành,[358]
làm cho đổ quán, xiêu đình như chơi!
Thúc-sanh quen nết bốc rời,[359]
trăm ngàn đổ một trận cười như không
Mụ càng tô lộc chuốt hồng,
máu tham hễ thấy hơi đồng[360] thì mê.
Dưới trăng quyên đã gọi hè,[361]
đầu tường lửa lựu lập-loè đơm bông.
Phòng là phải buổi thong-dong,
than hương nưng bức trướng hồng rạch hoa.[362]
Rõ-ràng trong ngọc trắng ngà,
dầy-dầy sẵn đúc một toà thiên nhiên.[363]
Sanh càng tỏ nết, càng khen,
tả tình tay thảo một thiên luật Đường.[364]
Nàng rằng: vưng biết ý chàng,
lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.

Hay hèn lẽ cũng nối điêu,[365]
nỗi sanh nghĩ một hai điều ngang ngang.
Lòng còn gởi đám mây vàng,
hòa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.
Rằng sao nói lạ lùng thay!
nhành kia chẳng phải cội nầy mà ra.
Nàng càng ủ giột thu ba,[366]
đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tanh.
Thiếp như hoa đã lìa nhành,
chàng như con bướm liệng vành chút chơi.
Chủ xuân[367] đành đã có nơi,
vắn ngày thôi chớ dài lời làm chi.
Sanh rằng: từ thuở tương tri,
lòng riêng, riêng những nặng vì nước non.
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.[368]
Nàng rằng: muôn đội ơn lòng.
chút e bên thú bên tùng dễ đâu.[369]
Bình khương áng ná bấy lâu,[370]
yêu hoa yêu được một màu điểm trang.
Rồi ra lạt phấn phai hương,
lòng kia giữ được thường-thường mãi chăng?
Vả trong thềm quế cung trăng,[371]
chủ trương đành đã chị hằng[372] ở trong.

Thuốc mê đâu đã rưới vào, mơ-màng như giấc chiêm-bao biết gì.
Giẩy ngay lên ngựa tức-thì, phòng thêu, viện sách bốn bề lửa dông.

Bây-giờ khăn-khít dải đồng,[373]
thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.
Vỉ chi chút phận bèo mây,
làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm đều ngang-ngửa vì tôi,
thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
Như chàng có vững tay co,[374]
mười phần xin đắp-điếm cho một vài.
Thế trong dầu lớn hơn ngoài,
trước hàm sư-tử gởi người đằng la.[375]
Cúi đầu lòn xuống mái nhà,[376]
giấu mùi lại tội bằng ba lửa hừng.[377]
Ở trên còn có nhà xuân,
biết trên trông xuống phỏng chừng có thương.
Sá chi liễu ngỏ hoa tường,
lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.[378]
Lại càng nhơ dạng dại hình,
đành thân-phận thiếp, nghĩ danh-giá chàng.[379]

Thương sao cho vẹn thì thương,
tính sao cho trọn mọi đường thì vâng.
Sanh rằng: hay nói đè chừng,
lòng đây, lòng đấy chưa từng hay sao?
Đàng xa chớ ngại Ngô Lào,[380]
trăm đều hãy cứ trông vào một ta.
Đã gần chi có đều xa?
đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.
Cùng nhau căn-vặn đến đều,
chỉ non thề biển, nặng gieo đến lời.
Nỉ-non đêm vắng tình dài,
ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.[381]
Mượn đều trúc viện thừa lương,[382]
rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
Chiến, hòa sắp sẵn hai bài,
cậy tay thầy thợ[383] mướn người dò la.[384]
Bắn tin đến mặt Tú-bà,
thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao.
Rõ-ràng của dẫn tay trao,
tòng lương[385] một thiếp thân vào cửa công.
Công xem hai lẽ đều xong,
gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.
Một nhà sum-hiệp trước mai,
càng sâu ngãi biển, càng dài tình sông.
Hương càng đượm, lửa càng nồng,
càng xuê vẻ ngọc, càng lồng màu sen.

Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
sân ngô nhánh hích đã chen lá vàng.[386]
Mận thu vừa nảy giò sương,[387]
xe bồ đã thấy xuân đường đến nơi.[388]
Phong lôi nổi trận bời-bời,
sốt long e-ấp[389] tính bài phân-chia.
Quyết ngay biện bạch một bề,
dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
Thấy lời nghiêm huấn rành rành,
đánh liều Sanh mới lấy tình nài kêu.
Rằng: con biết tội đã nhiều,
dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
Trót vì tay đã nhúng chàm,
dại rồi còn biết khôn làm sao đây?
Cùng nhau vả tiếng một ngày,
ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành?
Lượng trên quyết chẳng thương tình,
bạc đen thôi có tiếc mình làm chi.
Thấy lời vàng đá tri-tri,[390]
sốt gan ông mới cáo quì cửa công.
Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
Cùng nhau theo gót sai nha,
song song vào trước sân hoa lạy quì.

Đạo nhơn phục trước tỉnh đàn, xuất thần dây-phút chưa tàn nén-hương.
Trở về minh-bạch nói tường, mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra.

Trông lên mặt sắt đen sì,
sắp uy trước đã ra uy nặng lời:
Gã kia dại nết chơi-bời,
mà con người ấy là người đong-đưa.
Tuồng chi huê thải hương thừa?
mượn màu son phấn đánh lừa con đen.[391]
Suy trong tình trạng nguyên đơn,
bề nào thì cũng chưa an bề nào.
Phép công chiếu án luận vào,
có hai đường ấy muốn sao mặc mình.
Một là cứ phép gia hình,
một là lại cứ lầu xanh phú về.
Nàng rằng: đã quyết một bề,
nhện nầy vương lấy tơ kia mấy lần?
Đục trong thân cũng là thân,
yếu thơ vưng chịu trước sân lôi-đình.
Dạy rằng: cứ phép gia hình,
ba cây chặt lại một nhành mẫu-đơn.[392]
Phận đành chi dám kêu oan,
đào giun cuốn má, liễu tan-tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,[393]
gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương.
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
nẽo xa trông thấy lòng càng xót-xa.
Khóc rằng: oan khúc vì ta,
có nghe mình[394] trước, chửa đà khỏi sau.

Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu,
để ai trăng tủi huê sầu vì ai?
Phủ đường nghe thoảng vào tai,
động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
Sụt-sùi chàng mới thưa ngay,
đầu đuôi lại kể sự ngày cầu thân.[395]
Nàng đà tính hết xa gần,
Từ xưa nàng đã biết thân có rày.
Tại tôi xứng lấy một tay,
để nàng cho đến nỗi nầy vì tôi.
Nghe lời nói cũng thương lời,
dẹp oai mới dạy mở bài giải vi;
Rằng: như hẳn có thế thì,
trăng hoa song cũng thị phi biết đều.[396]
Sanh rằng: chút phận bọt-bèo,
theo đòi cũng vả ít nhiều bút nghiên.
Cười rằng: đã thế thì nên,
mộc già[397] hãy thử một thiên trình nghề.
Nàng vưng cất búc tay đề,
tiên hoa[398] trình trước án phê xem tường.
Khen rằng: giá lướt thịnh Đường[399]
tài nầy sắc ấy ngàn vàng chửa cân.
Thật là tài-tử giai-nhơn,[400]
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn.[401]

Thôi đừng chác dữ mua hờn,
làm chi lỡ bực cho đờn ngang cung.[402]
Đã đưa đến trước cửa công,
ngoài thì là lý, song trong là tình.
Dâu con trong đạo gia đình,
thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.
Kiếp truyền sắm-sửa lễ công,
kiệu hoa lướt gió, đuốc hồng điểm sao.
Bày hàng cổ-nhạc xôn-xao,
song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
Thương vì nết, trượng vì tài,
Thúc-ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
Huệ lan náo-nức một nhà,
từng cay đắng lại mặn-mà hơn xưa.
Mãng vui rượu sớm cờ trưa,
đào đà bay thắm, sen vừa nảy xanh.[403]
Trướng hồ vắng-vẻ đêm thanh,
e tình nàng mới bày tình riêng chung;
Phận bồ[404] từ vẹn chữ tùng,
đổi-thay nhàn cá đã hòng đầy niên.
Tin nhà ngày một thầm tin,
mặn tình cát lụy,[405] lạt nền tào khang.[406]
Nghĩ ra thật cũng nên dường,
tăm-hơi ai kẻ giữ-giàng cho ta?

Đã đem mình bán cửa tao, lại còn khủng-khỉnh làm cao thế nầy.
Gia pháp đâu trẻ nọ bay, hãy cho ba chục biết tay một lần.

Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
ở vào khuôn phép, nói ra mối-giềng.
E thay những dạ phi thường,
dể dò rún biển, khôn lường đáy sông.
Mà ta trót một năm ròng,
thế nào cũng chẳng giấu giung được nào.
Bây giờ chưa tỏ tiêu-hao,[407]
hoặc là trong có làm sao chăng là?

Túy-Kiều là đứa biết đều, biết Thúc-Sanh có vợ ở bên nhà, nên năng nói biểu về mà nói cho vợ chính hay kẻo sau rầy rà khó lòng. Thúc-Sanh về thì về chớ giấu không cho con Hoạn-thơ là vợ chính biết.

Xin chàng kíp liệu lại nhà,
trước là đẹp ý, sau ta biết tình.
Đêm ngày giữ mực giấu quanh,
rày lần mai lựa, như hình chửa thông.
Nghe lời khuyên nhủ thong dong
định tình Sanh mới quyết lòng hồi trang.[408]
Rạng ra gởi đến xuân đường,
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.[409]
Tiễn đưa một chén quan hà,[410]
xuân đình[411] thoát đã dạo ra cao đình.[412]
Sông Tần một dải xanh xanh,
lôi thôi bờ liễu mấy nhành dương quan.

Cầm tay dài thở vắn than,
chia phui ngừng chén hiệp tan nghẹn lời.
Nàng rằng: non nước xa khơi,
sao cho trong ấm, thì ngoài mới êm.
Dể lòn chỉ thắm trôn kim,
làm chi bưng mắt, bắt chim khó lòng.[413]
Đôi ta chút nghĩa đèo-bòng,[414]
đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.
Dầu khi mưa gió bất bình,
lớn ra oai lớn, tôi đành phận tôi.
Hơn đều giấu ngược giấu xuôi,
lại mang những việc tày trời đến sau.
Thương nhau xin nhớ lời nhau,
năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
chén mầng xin đợi bữa nầy năm sau.
Người lên ngựa kẻ chia bâu,[415]
rừng phong thu đã nhuốm màu quan sơn.[416]
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,[417]
trông người đã khuất mấy ngàn cây xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
kẻ đi muôn dặm, một mình pha-phui.
Vầng trăng ai rẽ làm đôi,
nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Kể chi những nỗi dọc đường,
phòng trong lại nỗi chủ trương ở nhà.

Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
con quan lại bộ tên là Hoạn-thơ.
Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,
cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Ở ăn thì nết cũng hay,
nói đều ràng-buộc thì tay cũng già.[418]
Từ nghe vườn mới thêm hoa,
miệng người đã lắm, tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng[419]
trách người đen-bạc ra lòng trăng hoa.[420]
Ví-bằng thú thật cùng ta,
cũng dung kẻ dưới mới là đường trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
sốt chi mà chác tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng-bít giấu quanh
làm chi những thói trẻ ranh[421] nực cười.
Tính rằng: cách mặt khuất lời,
dối ta ta cũng liệu bài giấu cho.
Lo chi việc ấy mà lo,
kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
làm cho đày-đọa cất đầu chẳng lên.
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
cho người tham ván bán thuyền biết tay.[422]
Trong lòng kín chẳng ai hay,
ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.

Tiểu-thơ đón cửa giả-giề, hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức là, phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.

Tuần sau bỗng thấy hai người,
mách tin ý cũng liệu bài tấn công.
Tiểu-thơ nổi giận đùng đùng,
gớm thay thêu-dệt đem lòng trêu ngươi!
Lang quân nào phải như ai,
đều nầy hẳn bởi những người thị phi.
Vội-vàng làm dữ ra uy,
đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng.
Trong ngoài kín-mít như bưng,
nào ai còn dám nói năng một lời?
Buồng thêu khuya sớm thảnh-thơi,
ra vào một mực nói cười như không
Đêm ngày lòng những dặn lòng,
Sanh đà về đến lầu hồng xuống yên.
Lời tan hiệp nỗi hàn huyên,
chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng.
Tẩy trần[423] vui chén thong-dong,
nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra?
Chàng về xem ý-tứ nhà,
sự mình cũng rắp lân-la giải bày.
Mấy phen cười tỉnh nói say,
tóc tơ chẳng động mảy may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,[424]
nào ai có khảo mà mình lại xưng?
Những là e-ấp dùng-dằng,
rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Có khi vui truyện mua cười,
Tiểu-thơ lại dở những đều đâu đâu.

Rằng: trong ngọc đá vàng thau,
mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những miệng dông-dài,
bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
Thiếp dầu vụng chẳng hay suy,
đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười.
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
thuận lời chàng cũng nói xuôi đở đòn.
Những là cười phấn cợt son,
đèn khuya chong bóng trăng tròn sánh vai.
Non xuân gỏi vược bén mùi,
giếng vàng đã nảy một vài tin ngô.[425]
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
một niềm quan tái[426] mấy mùa gió trăng.
Tình riêng chửa dám dỉ răng,
Tiểu-thơ trước đã liệu chừng nhủ qua.
Cách năm mây bạc[427] xa xa,
Lâm-tri cũng phải tính mà thần hôn.[428]
Được lời như mở tấc son,
vó cu thẳng ruổi nước non quê người.
Long-đong đáy nước in trời,
thành xây trổ biếc, non phơi bóng vàng.[429]
Vó cu vừa gióng dặm trường,
xa hương nàng đã thuận đường qui ninh.[430]

Thưa nhà huyên hết mọi tình,
nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng giận lẫy hờn ghen,
xấu chàng mà có ai khen gì mình?

Trong nố bạn-bè có thằng Ưng thằng Khuyễn, về nói với con Hoạn-thơ. Hoạn-thơ nỗi máu ghen, cho quân ấy qua lén đốt nhà, bắt con Túy-Kiều đem về giao cho mẹ nó hành hà đày-đọa.

Vậy nên ngảnh mặt làm-thinh,
mưu cao vốn đã rắp-ranh những ngày.
Lâm-tri đàng bộ tháng chầy,
mà đàng hải đạo sang ngay thì gần.
Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
Làm cho cho mệt cho mê,
làm cho đau-đớn ê-hề cho nao.
Trước cho bỏ ghét những người,
sau cho để một trò cười về sau.
Phu-nhân[431] khen chước rất mầu,
chìu con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa-sang buồm gió lèo mây,
Khuyển, Ưng lại lựa một bầy côn-quang.[432]
Dặn-dò hết các mọi đàng,
thuận phong một lá vượt sang biển Tề.
Nàng từ chích bóng song the,[433]
đàng kia nỗi nọ như chia mối sầu.

Thừa cơ Sanh mới lén ra, xăm-xăm đến mé vườn hoa với nàng.
Sụt-sùi kể nỗi đoạn tràng, giọt châu tầm-tả ướt tràng áo xanh.

Bóng dâu đã xế ngang đầu,[434]
biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm quanh vai,[435]
nào lời non nước nào lời sắt son.
Đèo-bòng chút phận con-con,
nhơn-duyên biết có vuông tròn cho chăng?
Thân sao lắm nổi bất bằng,
liều như cung quảng[436] chị Hằng[437] nghĩ nao.
Đêm thu gió lọt song đào,
nữa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời.[438]
Nén hương đến trước thiên đài,
nổi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.

Lúc cháy nhà, thì quân bạn vớt xác chết trôi ném vào để làm tang. Thúc-Sanh khi ấy đi khỏi. Cha Thúc-Sanh chạy qua thấy nhà cửa cháy tan hoan, lại có gặp xương nên tưởng Túy-Kiều đã bị chết thiêu rồi.

Dưới hoa dậy lũ ác nhơn
ầm ầm khốc quỉ kinh thần mọc ra.
Đầy sân gươm tót sáng lòa,
thất-kinh nàng chửa biết là làm sao.
Thuốc mê đâu đã rưới vào,
mơ-màng như giấc chiêm-bao biết gì.
Giẩy[439] ngay lên ngựa tức-thì,
phòng thêu, viện sách bốn bề lửa dông.

Sẵn thây vô chủ bên sông,
ném vào để đánh lận sòng[440] ai hay.
Tôi-đòi phách lạc hồn bay,
pha càn[441] bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc-ông nhà cũng gần quanh,
chợt trông ngọn lửa thất-kinh rụng-rời.
Tớ thầy chạy thẳng tới nơi,
tơi-bời rưới nước, tìm người lao-xao.
Gió tung ngọn lủa càng cao,
tôi-đòi tìm đủ, nàng nào thấy đâu?
Hớt-hơ hớt-hải[442] nhìn nhau,
giếng sâu bụi rậm, trước sau tìm quàng.
Chạy ra chốn củ phòng hương,
trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
Ngay tình ai biết mưu gian,
hản nàng thôi lại có bàn rằng ai?
Thúc-ông rơi lụy vắn dài,
nghĩ con vắng-vẻ, thương người nết-na.
Di hài nhặt gói[443] về nhà,
nào là khâm liệm,[444] nào là tang trai.[445]
Lễ thường đã vẹn một hai,
lục trình[446] chàng cũng đến nơi bấy-giờ.

Thúc-Sanh về nghe nói lại, thì rầu rỉ khóc lóc. Mới đi đánh đồng thiếp mà kiếm Túy-Kiều, thì nói còn sống. Một năm nữa sẽ gặp nhau mà không dám nhìn; va không tin lời thầy nói.

Bước vào chốn cũ lầu thơ,
tro than một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Hỗi ôi nói hết sự duyên,
tơ tình đưt ruột, lửa phiền cháy gan.
Gieo mình vật-vã khóc-than,
con người thế ấy, thác oan thế nầy!
Chắc rằng mai trước lại vầy,
ai hay vĩnh quyết[447] là ngày đưa nhau.
Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau,
dễ ai lấp thảm, quạt sầu cho khuây.
Gần miền nghe có một thầy,
phi phù trí quỉ[448] cao tay thông huyền.[449]
Trên tam bửu[450] dưới cửu tuyền,
tìm đâu thì cũng biết tin rõ-ràng.
Sắm-sanh lễ-vật đưa sang,
xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi-han.
Đạo nhơn[451] phục trước tỉnh đàn,[452]
xuất thần dây-phút chưa tàng nén hương.
Trở về minh-bạch nói tường,
mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra.

Cất mình qua ngọn tường hoa, lần đàng theo bóng trăng tà về tây.
Mịt-mù dặm cát chồi cây, tiếng gà đêm cỏ dấu giày cầu sương.

Người nầy nặng kiếp oan gia,[453]
còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho.
Mạng cung[454] đang mắc nạn to,
một năm nữa mới thăm dò được tin.
Hai bên giáp mặt chìn-chìn,[455]
muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
Đều đâu nói lạ-lùng thay!
sự nàng đã thế, lời thầy dám tin?
Chẳng qua đồng-cốt quàng-xuyên,[456]
người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm-ngùi xuân,
thân nầy dễ lại mấy lần gặp tiên.
Nước trôi hoa rụng đã yên,
hay đâu địa-ngục ở miền nhơn-gian.
Khuyển, Ưng đã đến mưu gian
vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh xiên,
đè chừng huyện Tích, băng miền vượt sang.
Đến bến lên trước thính-đường,[457]
Khuyển, Ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,[458]
hãy còn thíp-thíp giấc nồng chưa-phai.

Huỳnh lương[459] chợt tỉnh trước mai,
cửa nhà đâu mất lầu đài nào đây?
Bàng-hoàng dở tỉnh dở say,
thính-đường mắng tiếng đòi ngay lên hầu.
A-hườn[460] trên dưới giục mau,
hãi-hùng nàng mới theo sau mọi người?
Léc trông toà rộng dãy dài,
thiên quan trủng-tể, có bài treo trên;
Ban ngày đèn thắp hai bên,
trên giường thất-bửu,[461] ngồi trên một bà.
Gạn-gùng ngọn hỏi ngành tra,
sự mình nàng đã cứ mà gởi thưa.
Bất tình nổi trận mây mưa,
mắng rằng những giống bơ thờ quen thân.
Con nầy chẳng phải thiện nhân,
chẳng màu trốn chủ thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả, gà đồng,[462]
ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.

Đã đem mình bán cửa tao,
lại còn khủng khỉnh[463] làm cao thế nầy.
Gia pháp đâu trẻ nọ bay,[464]
hãy cho ba chục biết tay một lần.
A hườn trên dưới dạ rân,
dẫu rằng: trăm miệng khôn phân lẽ nào.
Trước côn[465] ra sức sắp vào,
thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh?
Xót thay đào lý[466] một nhành,
một phen mưa gió tan-tành một phen.
Hoa-nô truyền dạy đổi tên,
phòng thêu dạy áp vào phiên thị-tì.[467]
Ra vào theo lủ thanh y,[468]
dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
Quản-gia có một mụ nào,
thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi trà chén, khi thuốc thang,
giúp lời phương tiện,[469] mở đàng hiếu sanh.[470]
Dạy rằng: may rủi đã đành,
liễu hồ mình giữ lấy mình cho hay.
Cũng là oan-nghiệp chi đây,
sa cơ mới đến thế nầy chăng rưng?[471]

Xăm-xăm gỏ cửa bước vào, trù-trì nghe tiếng rước mời vào trong.
Thấy màu ăn-mặc nâu-sồng, Giác-duyên sư trưởng lành lòng liền thương.

Ở đây tai vách, mạch rừng,[472]
thấy ai người cũ, cũng đừng nhìn chi,
Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
con ong cái kiến kêu gì đặng oan?
Nàng càng đổ ngọc[473] như chan,
no lòng no những bàn-hoàn niềm tây.
Phong trần kiếp đã chịu dày,
lầm than[474] lại có thứ nầy bằng hai.
Làm sao bạc chẳng vừa thôi?
chằng-chằng buộc mãi lấy người hồng nhan?
Đã đành túc trái tiền oan,[475]
cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
Những là nương-náu qua thì,
Tiểu-thơ phải buổi mới về ninh gia.

Bà mẹ con Hoạn-thơ hành hà Túy-Kiều cho đến, rồi giao lại cho Hoạn-thơ đem về bên nhà nó.

Mẹ con trò-chuyện lân-la,
phu nhơn mới gọi nàng ra dạy lời.
Tiểu-thơ dưới trướng thiếu người,
cho về bên ấy theo đòi đài trang.
Lãnh lời nàng mới theo sang,
biết đâu địa-ngục, thiên-đàng là đâu?
Sớm khuya khăn mặt, lược đầu,
phận con hầu giữ con hầu dám sai.
Phải đêm êm-ả[476] chiều trời,
trước tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.

Lãnh lời nàng mới nhắc dây,[477]
nỉ-non thảnh-thót dễ say lòng người.
Tiểu-thơ xem cũng thương tài,
khuôn oai dường cũng bớt vài bốn phân.
Cửa người đày đọa chút thân,
sớm năn-nỉ bóng, đêm ngơ-ngẩn lòng.
Lâm-tri chúc nghĩa đèo-bòng,
nước, bèo đề chữ tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu,
trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Lần-lần tháng lụn ngày qua,
nỗi gần nào biết đàng xa thế nầy.
Lâm-tri từ thuở oan bay,[478]
phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
Mày xanh trăng mới in ngần,[479]
phần thừa hương cũ bội phần xót-xa.
Sen tàn mai lại chiếng hoa,[480]
sầu dài ngày vắn đông đà sang xuân.

Thúc-Sanh trở về thấy Túy-Kiều ở tại nhà vợ lớn là Hoạn-thơ, mà không dám nhìn; khi ấy mới biết lời thầy đoán hay.

Tìm đâu cho thấy cố nhân?
lấy câu mạng vận cổi dần nhớ thương.

Chạnh lòng nhớ cảnh gia hương,
nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Tiểu-thơ đón cửa giả-giề,[481]
hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức là,
phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
Bước ra một bước một ngừng,
trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa.
Phải rằng, nắng quáng đèn loà,
rõ-ràng ngồi đấy chẳng là Thúc-sanh.
Bây-giờ tình mới rõ tình,
thôi thôi đã mắc vào vòng chẳng sai.
Chước đâu có chước lạ đời,
người đâu mà lại có người tinh ma?
Rõ-ràng thật lứa đôi ta,
làm ra con ở, chủ nhà đôi nơi.
Bề ngoài lợt lợt nói cười,
mà trong nham-hiểm[482] giết người không dao.
Bây-giờ đất thấp trời cao,
ăn làm sao, nói làm sao bây-giờ?
Càng trông mặt càng ngẩn-ngơ,
ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ oai dám chẳng vưng lời,
cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sanh đà phách lạc hồn siêu,
thương ôi! chẳng phải nàng Kiều ở đây?
Nhân làm sao đến thế nầy?
thôi thôi ta đã mắc tay đã rồi!
Sợ quen dám hở ra lời,
khôn ngăn giọt ngọc sụt-sùi nhỏ sa,

Có nhà mụ Bạc bên kia, am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang dặn hết mọi đường, dọn nhà hãy tạm cho nường trú chơn,

Tiểu-thơ trông mặt hỏi tra,
mới về mà có việc gì động dong.[483]
Sanh rằng: hiếu phụ vừa xong,
suy lòng trắc tị[484] đau lòng chung thiên.[485]
Khen rằng: hiếu tử đã nên!
tẩy trần[486] mượn chén giải phiền đêm thu.
Vợ chồng chén tạc chén thù,[487]
bắt nàng đứng chực huề hồ[488] hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
bắt quì tạn mặt bắt mời tạn tay.
Sanh càng như dại như ngây,
giọt dài giọt vắn chén đầy chén vơi.
Lặng đi chợt nói chợt cười,
cáo say chàng đã tính bài giãn ra.
Tiểu-thơ vội thét con Hoa,[489]
khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
Sanh càng nát ruột tan hồn,
chén mời phải ngậm bòn-hòn trơn ngay.[490]
Tiểu-thơ cười tỉnh nói say,
chửa xong cuộc rượu đã bày trò chơi.
Rằng: Hoa-nô đủ mọi tài,
bản đờn thử dạo một bài chàng nghe.
Nàng đà tẩn-mẩn tê-mê,
vưng lời ra trước bình the vặn đàn. (đờn)

Bốn dây như khóc như than,
khiến người trên tiệc cũng tan-nát lòng.
Cũng trong một tiếng tơ đồng,
người ngoài cười rộ, người trong khóc thầm.
Giọt châu lã-chã khôn cầm,
cúi đầu chàng những bặt thầm giọt sương.
Tiểu-thơ lại thét lấy nàng,
cuộc vui khảy khúc đoạn tràng ấy chi?
Sao chẳng biết ý tứ chi,
cho chàng buồn-bã tội thì tại ngươi.
Sanh càng thảm-thiết bồi-hồi,
vội-vàng gượng nói gượng cười cho qua.
Khúc rồng[491] canh đã điểm ba,
Tiểu-thơ nhìn mặt dường đà cam tâm.
Lòng riêng khấp-khởi mừng thầm,
buồn nầy đã bỏ đau ngầm xưa nay.
Sanh thì gan héo ruột gầy,
nỗi lòng càng nghĩ càng cay-đắng lòng.
Người vào chung gối lang-phòng,
nàng ra dựa bóng đèn chong canh dài:
Đến nay mới biết đầu đuôi,
máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen?
Chước đâu rẽ túy chia uyên,[492]
ai ra đàng nấy, ai nhìn được ai?
Bây-giờ một đất một trời
hết đều dùi thẳng hết lời thị phi.
Nhẹ như bấc nặng như chì,
gỡ ra cho được còn gì là duyên?

Lỡ-làng chút phận thuyền quyên,
bể sâu sóng cả có tuyền được vay!
Một mình âm-ỷ canh chầy,
đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh.
Sớm khuya hầu-hạ đài-dinh,
Tiểu-thơ chạm mặt đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa qua,
phải khi mình lại xót-xa nổi mình.
Tiểu-thơ lại hỏi Thúc-sanh:
cậy chàng tra lấy thật tình cho nao.
Sanh đà rát ruột như bào,
nói ra chẳng tiện, trông vào chẳng đang.
Những e lại lụy đến nàng,
phô sòng[493] mới sẽ liệu đàng hỏi tra.
Cúi đầu quì trước sân hoa,
tự cung nàng mới lên qua một tờ;
Diện tiền trình với Tiểu-thơ,
thoát xem dường có ngẩn-ngơ chút tình.
Trên tay trao lại Thúc-sanh,
rằng: tài nên trọng, mà tình nên thương.
Ví sinh có số giàu sang,
giá nầy dẫu đúc nhà vàng[494] cũng nên.
Biển trần chìm nổi thuyền quyên,
hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời.
Sanh rằng: thật có như lời,
hồng nhan bạc mạng, một người nào vay?

Lần thâu gió mát trăng thanh, bổng đâu có khách biên-đinh tơi chơi.
Râu hùm, hàm én, mày ngài, vai năm vừng rộng, thân mười thước cao.

Ngàn xưa âu cũng thế nầy;
từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
Tiểu-thơ rằng: ý trong tờ,
rấp đem mạng bạc xin nhờ cửa không.

Thúc-Sanh thấy đày đọa Túy-Kiều như vậy thì nói với Hoạn-thơ biểu nới tay, đừng có hành hà quá mà thất đức, thì Hoạn-thơ mới cho ra ở giữ chùa Quan-Âm các.

Thôi thì thôi cũng chìu lòng,
cũng cho cho nghỉ trong vòng bước ra.
Sẵn Quan-âm các vườn ta,
có cây trăm thước có hoa bốn mùa.[495]
Có thảo thọ, có sơn hồ,
cho nàng ra đó giữ chùa viết kinh.
Tưng-tưng trời mới bình minh,
hương hoa ngũ cúng sắm-sanh lễ thường.
Đưa nàng đến trước phật đường,
tam qui[496] ngũ giái,[497] cho nàng xuất gia.
Áo xanh đổi lấy ca sa,[498]
pháp danh lại đổi tên ra Trạc-tuyền.
Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,
Xuân, Thu cắt sẵn hai tên hương trà.[499]
Nàng từ lánh gót vườn hoa,
dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.
Nhơn duyên đâu lại còn mong,
khỏi đều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.

Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
ngày phò thủ tự,[500] đêm nồi tâm hương.
Cho hay giọt nước nhành dương,[501]
lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nâu sồng từ trở màu thuyền,[502]
sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.
Quan phòng thẹn mặt lưới mau,[503]
nói cười trước mặt, rơi châu vắng người.
Các kinh, viện sách đôi nơi,
trong gang thước lại bỉ mười quan sơn.[504]
Những là ngậm thở ngùi than,
Tiểu-thơ phải buổi vấn an về nhà.

Hoạn-thơ giã đò về thăm mẹ, mà trá núp rình coi; mới thấy Thúc-Sanh vô chùa nói chuyện với Túy-Kiều. Vợ hỏi đi đâu vậy, thì nói đi coi người viết kinh, chữ tốt lắm; hai vợ chồng đem nhau về, để con đầy tớ ở lại đó.

Thừa cơ Sanh mới lén ra,
xăm-xăm đến mé vườn hoa với nàng.
Sụt-sùi kể nỗi đoạn tràng,
giọt châu tầm-tả[505] ướt tràng áo xanh.
Rằng: cam chịu bạc với tình,
chủ đông[506] để tội một mình cho hoa.

Thấp cơ thua trí đàn-bà,
trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.
Vì ta cho lụy đến người,
cát lầm ngọc trắng thiệt-thòi xuân xanh.
Luận chi lên thác xuống gành,
cũng toan sống thác với tình cho xong.
Tông đường[507] chút chửa cam lòng,
cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.[508]
Thẹn mình đá nát vàng phai,
trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
Nàng rằng: chiếc bá sóng đào[509]
phù trầm cũng mặc lúc nào rủi may.
Chút thân quằn-quại[510] vùng-vầy,
sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
Cũng liều một giọt mưa dào,
mà cho thiên hạ trông vào cho hay.
Trót vì cầm đã bén dây,
chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
Liệu bài mở cửa cho ra,
ấy là tình nặng ấy là ơn sâu.
Sanh rằng: riêng tưởng bấy lâu,
lòng người nham-hiểm[511] biết đâu mà lường.
Nữa khi dông-tố phụ phàng,
thiệt riêng đây cũng lại càng cực đây.
Liệu mà cao chạy xa bay,
ái ân ta có ngằn nầy mà-thôi.

Nàng rằng: phận gái chử tòng, chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi
Từ rằng: tâm phủ tương tri, sao chưa thoát khỏi nữ-nhi thường tình?

Bây-giờ kẻ ngược người xuôi,
biết bao giờ lại nối lời nước non.
Dẫu rằng: sông cạn đá mòn,
con tằm đến chết cũng còn kéo tơ.
Cùng nhau kể-lể sau xưa,
nói rồi lại nói lời chưa hết lời.
Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
hoa tì[512] đã động tiếng người nẻo xa.
Ngẩn ngơ nói tủi bước ra,
Tiểu-thơ đâu đã thềm hoa bước vào.
Cười cười nói nói ngọt ngào,
hỏi chàng mới ở chốn nào lại chơi?
Dối quanh Sanh mới liệu lời,
tìm hoa quá bước xem người viết kinh.
Khen rằng: bút pháp đã tinh,
so vào với thiếp lan-đình[513] nào thua
Tiếc thay lưu-lạc giang hồ,
ngàn vàng thật cũng nên mua lấy tài.
Thuyền trà rót nước hồng mai,[514]
thong-dong nối gót thơ trai[515] cùng về.

Kiều hỏi biết nó với Hoạn-thơ đã rình nghe ngoài vách nên sợ tính bề trốn đi. Mà sợ bơ-vơ đói biết lấy chi mà ăn, nên ăn-cắp cái chuông vàng với cái khánh bạc khuya nhảy vách ra đi.

Nàng càng e-lệ[516] ủ-ê,
dỉ tai hỏi lại huê-tì trước sau.

Hoa rằng: bà đến đã lâu
chôn chơn đứng nép độ đâu nửa giờ.
Rành-rành chơn tóc kẽ tơ,
mấy lời nghe hết đã dư tỏ-tường.
Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
nỗi ông vật-vã, nỗi nường thở-than.
Dặn tôi đứng lại một bên,
chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Nghe thôi kinh-hãi xiết đâu,
đờn bà dường ấy thế âu một người.
Ấy mới gan, ấy mới tài,
nghĩ càng thêm nỗi rởn gai rụng-rời.[517]
Người đâu sâu-sắc[518] nước đời,
mà chàng Thúc cũng ra người bó tay.
Thật tang bắt được dường nầy,
máu ghen ai cũng chau mày cắn răng.
Thế mà êm chẳng đãi-đằng,
chào mời vui vẻ nói năng dịu-dàng.
Giận ru ra dạ thế thường,
cười ru mới thật không lường hiểm sâu.
Thân ta, ta phải lo âu,
miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn nầy.
Ví chăng chắp cánh cao bay,
rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa.
Phận bèo bao quản nước sa,
lênh-đênh đâu nữa cũng là lênh-đênh.
Chỉn e quê khách một mình,
tay không chửa dể tìm vành ấm no.
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
phật tiền sẳn có mọi đồ kim ngân.

Bên mình giắt để hộ thân,
lòng nghe canh đã một phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường hoa[519]
lần đàng theo bóng trăng tà về tây.
Mịt-mù dặm cát chồi cây,
tiếng gà đêm cỏ dấu giày cầu sương.[520]
Canh khuya thân gái dặm trường,
phần e đàng-sá, phần thương dãi-dầu.
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
bơ-vơ nào đã biết đâu là nhà.

Sáng ra đi tới chùa bà Giác-Duyên, vô đó nói ở Bắc-kinh sư-trưởng sai đem chuông khánh cúng, thì Giác-Duyên tưởng thiệt cầm ở lại chờ sư-trưởng qua.

Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
rành-rành Chiêu-ẩn-am ba chữ bày.
Xăm-xăm gỏ cữa bước vào,
trụ-trì[521] nghe tiếng rước mời vào trong.
Thấy màu ăn-mặc nâu-sồng,
Giác-duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Gạn-gùng nhành ngọn cho tường,[522]
lạ-lùng nàng hãy tìm đường nói quanh.
Tiểu thuyền quê ở Bắc-kinh,
qui sư qui phật tu hành bấy lâu.
Bổn sư rồi cũng đến sau,
dạy đưa pháp bửu[523] sang hầu sư huynh.
Rày vâng diện hiến[524] rành rành,
chuông vàng khánh bạc bên mình dở ra.

Hai bên mười vị tướng quân, đặt gươm cỗi giáp trước sân khấu đầu.
Cung-nga thể-nữ theo hầu, rằng: vâng lệnh chỉ rước hầu vu qui.

Xem qua mới dạy qua,
phải nơi Hàng-thủy[525] là ta hậu tình?
Hiền đồ[526] đàng-sá một mình,
ở đây chờ-đợi sư huynh ít ngày.
Gởi thân dựa chốn am mây,
muối dưa đắp-đổi tháng ngày thong-dong.
Kệ-kinh câu cũ thuộc lòng,
hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.
Sớm khuya ra mái phên mây,
ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nặng sương.[527]
Thấy nàng thông-huệ khác thường,
sư càng nể mặt, nàng càng vững chơn.
Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân,
bóng hoa đầy đất, vẻ ngân[528] ngang trời.

Đặng ít lâu có người ở am Hoạn thơ qua chơi thấy chuông vàng và khánh bạc, mới nói bên đó có mất đồ ấy, tối bà Giác-Duyên hỏi, thì Túy-Kiều tỏ thiệt. Bà Giác-Duyên biểu lo mà trốn đi, thì lại gởi cho Bạc-bà lãnh về gả cho cháu tên là Bạc-Hạnh. Bạc-Hạnh đem về Châu-thai bán lại cho tàu-kê. Mà Túy-Kiều cũng không chịu làm đĩ.

Gió quang mây tạnh thảnh-thơi,
có người đàn việt[529] lên chơi cữa già.
Dở đồ chuông khánh xem qua,
khen rằng khéo hệt của nhà Hoạn-vương.
Giác-duyên thật ý lo-lường,
đêm thanh mới hỏi lại nường trước sau.

Nghĩ rằng khôn nỗi giấu màu,
sự mình nàng mới gót đầu bày ngay.
Bây-giờ sự đã dường nầy,
phận hèn dầu rủi dầu may tại người.
Giác-duyên nghe nói rụng-rời,
nửa thương nửa sợ bồi-hồi chẳng xong.
Dỉ tai nàng mới giãi lòng,
ở đây cữa phật là không hẹp gì.
E chăng những sự bất-kỳ,
để nàng cho đến thế thì cũng thương.
Lánh xa trước liệu tìm đường,
ngồi chờ nước đến nên dường còn quê.[530]
Có nhà mụ Bạc bên kia,
am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang dặn hết mọi đường,
dọn nhà hãy tạm cho nường trú chơn.
Những mầng được chốn an thân,
vội-vàng nào kịp tính gần tính xa.
Nào ngờ cũng tổ bợm già,
Bạc-bà học vuối Tú-bà đồng môn.
Thấy nàng lợt phấn đượm son,
mầng thầm được chốn bán-buôn có lời.
Hư không đặt bỏ nên lời,
nàng đà giớn-giác rụng-rời lắm phen.
Mụ càng xua-đuổi cho liền,
lấy lời hung-hiểm ép duyên châu trần.
Rằng nàng muôn dặm một thân,
lại mang lấy tiếng dữ gần lành xa.
Khéo oan gia của phá gia,
còn ai dám chứa vào nhà nữa đây.

Kíp toan kiếm chốn xe dây,
không nhưng chưa dễ mà bay đàng trời.
Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
nơi xa thì chẳng có người nào xa.
Nầy chàng Bạc-hạnh cháu nhà,
cũng trong thân-thích ruột-rà chẳng ai.
Cữa-nhà buôn-bán Châu-thai,
thật-thà có một, đơn-sai chẳng hề.
Thế nào nàng cũng phải nghe,
thành thân rồi sẽ liệu về Châu-Thai.
Bây-giờ ai lại biết ai,
dầu lòng biển rộng, sông dài thinh-thinh.
Nàng dầu chẳng quyết thuận tình,
trái lời nếu trước, lụy mình đến sau.
Nàng càng mặt ủ mày châu,
càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
Nghĩ mình túng đất sẩy chơn,
thế cùng nàng mới xa gần thở-than.
Thiếp như con én lạc đoàn,
phải cung rày đã sợ làn mây cung.
Cùng đàng dầu tính chữ tùng,
biết người biết mặt biết lòng làm sao?
Nữa khi muôn một thế nào,
bán hùm buôn quỉ chắc vào lưng đâu?[531]
Dầu ai lòng có sở cầu,
tâm minh[532] xin quyết vuối nhau một lời.
Chứng minh có đất có trời,
bây-giờ vượt biển ra khơi quản gì.
Được lời mụ mới ra đi,
mách tin họ Bạc tức thì sắm sinh.

Kéo cờ lũy, phát súng thành, Từ-công ra ngựa thân nghinh cửa ngoài.
Rở mình lạ vẻ cân đai, hãy còn cằm én mày ngài như xưa.

Một nhà dọn-dẹp linh-đình,[533]
quét sân đặt trác[534] rửa bình thắp nhang.
Bạc-sanh quì xuống vội-vàng,
quá lời nguyện hết Thành-hoàng, Thổ-công.
Trước sân lòng đã giãi lòng,
trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
Thành thân mới rước xuống thuyền,
thuận buồm một lá xuôi miền Châu-thai
Thuyền vừa dựa bến thảnh-thơi,
Bạc-sanh lên trước tìm nơi gọi người.
Cũng nhà hàng viện[535] xưa nay,
cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
Xem người định giá vừa rồi,
mối hàng một đã ra mười thì buông.
Mướn người thuê kiệu rước nàng,
bạc đem mặt bạc[536] kiếm đàng cho xa.
Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
bên trong thấy một mụ ra vội-vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
cũng thần mày trắng cũng phường lầu xanh.
Thoát trông nàng đã biết tình,
chim lồng không nhẽ[537] cất mình bay cao
Chém cha cái số hoa đào,
gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
Tiếc thay nước đã đánh phèn,
mà cho bùn lại nhuốm lên mấy lần!

Hồng-quân[538] vuối khách hồng-quần,[539]
đã xây đến thế còn hờn chửa tha?
Lỡ từ lạc bước bước ra,
cái thân liều những từ nhà liều đi.
Đầu xanh đã tội tình chi?
má hồng đến quá nửa thì chửa thôi!
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Từ-Hải tới chơi gặp Túy-Kiều, chuộc đem về làm vợ.

Lần thâu gió mát trăng thanh,
bỗng đâu có khách biên-đình đến chơi.
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
vai năm vừng rộng, thân mười thước cao.
Đường đường[540] một đấng anh-hào,
côn quyền[541] hơn sức, lược thao[542] gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
họ Từ tên Hải vốn người Việt-đông.
Giang hồ quen thú vẫy-vùng,
gươm đàn nửa cánh, non sông một chèo.[543]
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
tấm lòng nhi-nữ cũng xiêu anh-hùng.

Thiệp-danh đưa đến lầu hồng,
hai bên cũng lét[544] hai lòng cũng ưa.
Từ rằng: tâm phủ tương cờ,[545]
phải người trăng gió vật-vờ[546] hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
mắt xanh chẳng để ai vào dồng không.[547]
Một đời được mấy anh-hùng?
[548] chi cá chậu chim lồng mà chơi.
Nàng rằng: người dạy quá lời,
thân nầy con dám xem ai làm thường.
Chút riêng chọn đá thử vàng,
biết đâu mà gởi can-tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
ai cho kén chọn vàng thau tại mình.
Từ rằng: lời nói hữu tình,
khiến người lại nhớ câu Bình-nguyên-quân.[549]
Lại đây xem lại cho gần,
phỏng tin được một vài phần hay không?
Thưa rằng: lượng cả bao-dong,
Tấn-dương[550] đợi thấy bay rồng có phen.

Từ rằng: ân-oán hai bên, mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.
Nàng rằng: nhờ-cậy uy-linh, hãy xin báo đáp ân tình cho phu.

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
chút thân bèo-bọt, dám phiền mai sau.
Nghe lời vừa ý gặc đầu,
cười rằng: tri kỷ trước sau mấy người?
Khen cho con-mắt tinh đời,
anh-hùng tìm giữa trần ai mới già.
Một lời đã biết đến ta,
muôn chung ngàn tứ[551] cũng là có nhau.
Hai bên ý hiệp, tâm đầu,
khi thân chẳng lựa là cầu mới thân.
Ngỏ lời nói vuối băng-nhân,
tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
Phòng riêng sửa chốn thanh-nhàn,
đặt giường thất-bảo[552] vây màn bát-tiên.[553]
Trai anh-hùng, gái thiền-quyên,
phỉ nguyền sính phụng đẹp duyên cỡi rồng.

Từ-Hải tính đi làm giặc. Kiều xin đi theo, mà Từ-Hải không cho, nói bận chơn, bận cẳng, khó lòng; hãy ở lại nhà, nội trong một năm sẽ về rước.

Nửa năm hương lửa đang nồng,
trượng-phu phút đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời đất mênh-mông,
thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng xông.
Nàng rằng: phận gái chữ tòng,
chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi

Từ rằng: tâm phủ tương tri,[554]
sao chưa thoát khỏi nữ-nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
tiếng bề[555] dậy đất bóng sinh[556] dẹp đường.
Làm cho rõ mặt phi-thường,
bấy-giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn biển không nhà,
theo càng thêm bận biết là đi đâu.
Đành lòng chờ đó ít lâu,
chầy chăng là một năm sau vội gì?
Quyết lòng dứt áo ra đi,
gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi.
Nàng thì chếch bóng song mai,[557]
ngày thâu đãng-đãng[558] nhặt gài then mây.

Túy-Kiều ở nhà một mình buồn nhớ tới cha mẹ cùng chị em và nhớ lời nguyền thuở xưa với Kim-Trọng.

Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
Đoái thương muôn dặm tử phần,[559]
hồn quê[560] theo ngọn mây hồng xa-xa.
Xót thay huyên cội xuân già,
tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
Chốc là mười mấy năm trời,
còn ra khi đã da mồi tóc sương.

Tiếc thay chút ngãi cũ-càng!
dẫu lìa mối chỉ còn vương tơ lòng.
Duyên em dầu nối chỉ hồng,
may ra khi đã tay bồng tay mang.
Tấc lòng cố quốc tha hương,
đường kia nỗi nọ ngỗn-ngang bời-bời.
Cánh-hồng[561] bay bổng tuyệt vời,
đã mòn con-mắt phương trời đăm-đăm.[562]
Đêm ngày luống những âm-thầm,
lửa binh đâu đã ầm ầm một phương.

Từ-Hải làm giặc được, đem binh trở về rước Túy-Kiều.

Ngất trời sát khí mơ-màng,
đầy sông kình-ngạc, chật đàng giáp binh.
Người quen-thuộc, kẻ dông quanh,[563]
rủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
Nàng rằng: trước đã hẹn lời,
dẫu trong nguy-hiểm dám rời ước xưa?
Còn đang giùi thẳng ngẩn ngơ,
mái ngoài đã thấy ngọn cờ, tiếng la.[564]
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
đồng thanh[565] cùng hỏi nào là phu-nhân.
Hai bên mười vị tướng quân,
đặt gươm cỗi giáp trước sân khấu đầu.
Cung-nga thể-nữ theo hầu,
rằng: vâng lệnh chỉ rước chầu[566] vu qui.

Rồi đây bèo hiệp mây tan, biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu.
rằng: cũng chẳng mấy lâu, trong năm năm lại gặp nhau đó mà.

Sẵn sàng phượng tán loan nghi,[567]
hoa-quang[568] giấp-giới, hà-y rỡ-ràng.[569]
Kéo cờ nổi trống lên đàng,
trúc tơ nổi trước, kiệu vàng kéo sau.
Hỏa-bài[570] tiền lộ ruổi mau,
nam đình nghe động trống chầu đại-dinh.
Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ-công ra ngựa thân nghinh cửa ngoài
Rỡ mình lạ vẻ cân đai,
hãy còn cằm én mày ngài như xưa.
Cười rằng: cá nước duyên ưa,
nhớ lời nói những bao-giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh-hùng,
rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
Nàng rằng: chút phận ngây-thơ,
cũng may dây cát được nhờ bóng cây,
Rằng: bây-giờ mới thấy đây,
mà lòng đã chắc những ngày một hai.
Cùng nhau trông mặt cả cười,
dan tay về chốn trướng-mai tự tình.
Tiệc bày thưởng tướng khao binh,[571]
ầm-ầm trống trận rập-rình nhạc quân.
Vinh-hoa bỏ lúc phong-trần,
chữ tình ngày lại thêm thân một ngày.

Túy-Kiều nhờ oai quờn Từ-Hải; khi ấy mới xin đền ơn trả oán

Trong quân nhơn lúc vui-vầy,
thong-dong mới kể sự ngày hàn vi.

Khi Vô-tích khi Lâm-tri,
nơi thì lừa đảo, nơi thì xót-thương.
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.
Từ công nghe nói thỉ chung,
bất-bình nổi trận đùng-đùng sấm vang.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn-sàng,
dưới cờ một lệnh vội-vàng ruổi sao?[572]
Ba quân[573] chỉ ngọn cờ đào,
đạo ra Vô-tích, đạo vào Lâm-tri.
Mấy người phụ-bạc xưa kia,
chiếu danh tầm hoạch bắt về đãi-tra.
Lại sai lệnh-tiển[574] truyền qua,
giữ-giàng họ Thúc một nhà cho yên.
Mụ Quản-gia, vãi Giác duyên,
cũng sai lệnh tiển, đem tin rước mời.
Thệ-sư[575] kể hết mọi lời,
lòng-lòng cũng giận, người-người chớp uy.
Đạo trời báo-phục chỉn ghê,
khéo thay một mảy tóm về đầy nơi
Quân trung gươm lớn giáo dài,
vệ trong thị lập,[576] cơ ngoài song phi.[577]
Sẵn-sàng tề-chỉnh oai-nghi,
vác đồng[578] chật đất, sanh kỳ[579] dẹp sân.

Tướng hùm mở giữa trung quân,
Từ-công sánh vuối phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm[580] trống chửa dứt hồi,
điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
Từ rằng: ân-oán hai bên,
mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.
Nàng rằng: nhờ-cậy uy-linh,
hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
Báo ơn rồi sẽ trả thù,
Từ rằng: việc ấy để cho mặc nàng.
Cho gươm truy đến Thúc lang,
mặt như chàm đổ, thân dường cầy run.[581]
Nàng rằng: nghĩa trọng ngàn cân,
Lâm tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm thương[582] chẳng vẹn chữ đồng,
tại ai há dám phụ lòng cố-nhơn?
Gấm trăm cuốn, bạc ngàn cân
tạ lòng dễ xứng báo ơn gọi là?
Vợ chàng quỉ-quái tinh ma,
phen nầy kẻ cắp, bà già gặp nhau.[583]
Kiến bò miệng chén chớ lâu,[584]
mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Thúc sanh trông mặt bấy-giờ,
mồ-hôi chàng đã như mưa ướt đầm.

Có quan tổng-đốc trọng thần, là Hồ-tông-Hiến kinh luân gồm tài.
Giẩy xe vâng chỉ đặc sai, tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung.

Lòng riêng mầng sợ khôn cầm,
sợ thay mà lại mầng thầm cho ai.
Mụ-già, Sư trưởng[585] thứ hai,
thoạt đưa đến trước, vội mời rước lên.
Dắc tay mở mặt cho nhìn:
Huê-nô kia vuối Trạc-tuyền cũng tôi.
Nhớ khi lỡ bước sẩy vời,
non vàng chữa dễ đền hồi tấm thương.
Ngàn vàng gọi chút lễ thường,
mà lòng Phiếu-mẫu mấy vàng cho cân?
Hai người trông mặt chần-ngần,
nửa phần khiếp-sợ, nửa phần mầng-vui.
Nàng rằng: xin hãy rốn ngồi,
xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù.
Kíp truyền chư tướng hiến phù,[586]
lại đem các tích phạm-tù hầu tra.
Dưới cờ gươm rút nắp ra,
chính danh thủ phạm tên là Hoạn-thơ.
Xa trông nàng đã chào sơ:
Tiểu-thơ cũng có bây-giờ đến đây!
Đàn-bà dễ có mấy tay?
đời xưa mấy mặt đời nầy mấy gan?
Giở-giang là thói hồng nhan,
càng cay ngọt lắm, càng oan trái nhiều.
Hoạn-thơ hồn lạc phách xiêu,
khấu đầu dưới trướng, lựa đều kêu ca.
Rằng: tôi chút dạ đàn-bà,
ghen-tương thì cũng người-ta thường-tình,
Nghĩ cho khi các viết kinh,
vuối khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng cũng kính yêu,
chồng chung chửa dễ ai chìu cho ai?
Trót lòng dấy việc chông-gai,
còn nhờ lượng biển, thương bài nào chăng?
Khen cho thật đã nên rằng:
khôn-ngoan đến mực nói-năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
làm ra thì cũng ra người nhỏ-nhen.
Đã lòng tri quá thì nên,
truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
Tạ lòng lạy trước sân mây,
cửa viên lại dắc một dây dẫn vào,
Nàng rằng: lộng lộng trời cao,
hại nhân, nhân hại sự nào tại ta?
Trước là Bạc-hạnh, Bạc-bà,
bên là Ưng, Khuyển bên là Sở-khanh.
Tú-bà cùng Mã-giám-Sanh,
đẳng danh tội ấy xết tình còn sao?
Lệnh quân truyền xuống nội đao,[587]
thề sao thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi thịt nát tan-tành,
ai ai trông thấy hồn kinh phách dời.
Cho hay muôn sự tại trời,
phụ người chẳng bõ,[588] khi người phụ ta.
Mấy người bạc-ác tinh-ma,
mình làm mình chịu kêu mà ai thương?
Ba quân đông mặt pháp-trường,
thanh thiên bạch nhựt rõ-ràng cho coi.

Ân oán vừa xong thì bà Giác-Duyên nói tiên tri với Túy-Kiều rằng: trong năm năm nữa sẽ gặp nhau tại sông Tiền-Đường.

Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác-duyên vội đã gởi lời từ qui.
Nàng rằng: thiên tải nhứt thì,[589]
cố nhơn đã dễ mấy khi bàn hoàn.
Rồi đây bèo hiệp mây tan,
biết đâu hạc nội,[590] mây ngàn là đâu.
rằng: cũng chẳng mấy lâu,
trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
Nhớ ngày hành ước[591] phương xa,
gặp sư Tam-hạp vốn là tiên tri.
Bảo cho hội-hạp chi kỳ,
năm nay là một, nữa thì năm năm.
Mới hay tiền định chẳng lầm,
đã tin đều trước, ắt nhằm đều sau.
Còn nhiều ân ái vuối nhau,
cơ-duyên nào đã hết đâu vội gì?
Nàng rằng: tiền định tiên-tri,
lời đã dạy, ắt thì chẳng sai.
Họa bao giờ có gặp người,
vì tôi cậy hỏi một lời chung thân.[592]
Giác-duyên vâng dặn ân cần,
tạ từ thoát đã dời chân cõi ngoài.

Đóng quân làm chước chiêu an, ngọc-vàng gấm-vóc sai quân thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng, hai tên thễ-nữ ngọc vàng ngàn cân.

Túy-Kiều đền ân báo oán rồi, ra lạy tạ ơn Từ-Hải.

Nàng từ ân oán rạch-ròi,
biển oan dường đã vơi-vơi cạnh lòng[593]
Tạ ơn lạy trước Từ-công:
chút thân bồ-liễu nào mông có rày?
Trộm nhờ sấm-sét ra tay,
tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi.
Chạm xương ghi dạ xiết chi,
dễ đem gan ốc đền nghì trời mây?[594]
Từ rằng: quốc sĩ xưa nay,
chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
Anh-hùng tiếng đã gọi rằng:
giữa đàng dẫu thấy bất bằng mà tha?
Huống chi việc cũng việc nhà,
lựa là thâm tạ mới là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân,
bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn dặm một nhà,
cho người thấy mặt là ta cam lòng.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
muôn binh ngàn tướng hội đồng tẩy oan.[595]
Thừa cơ trước chẻ đá tan,[596]
binh oai từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều-đình riêng một góc trời
sánh hai văn võ rạch đôi sơn hà.

Đòi cơn gió quạt mưa sa,
huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam.
Phong trần mài một lưỡi gươm,
những loài giá áo túi cơm[597] sá gì?
Nghênh-ngang một cỏi biên thùy,
thiếu gì cô quả[598] thiếu gì bá vương?
Trước cờ ai dám tranh cường?
năm năm hùng-cứ một phương hải Tần.

Vua sai Hồ-tông-Hiến ra đánh Từ-Hải, mà liệu thế đánh không lại, nên sai sứ đem dâng lễ vật cho Túy-Kiều và Từ-Hải khuyên ra hàng đầu thú tội. Từ-Hải dùng dằng không chịu. Túy-Kiều năn-nỉ nói thiệt hơn, Từ Hải bèn nghe lời bó giáo hàng-đầu.

Có quan tổng-đốc trọng thần,
Hồ-tông-Hiến kinh luân gồm tài.
Giẩy xe vâng chỉ đặc sai,
tiện nghi bát tiểu[599] việc ngoài đổng nhung.[600]
Biết Từ là đấng anh-hùng,
biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Đóng quân làm chước chiêu an,
ngọc vàng gấm vóc sai quân thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
hai tên thể nữ ngọc vàng ngàn cân.
Tin vào gởi trước trung quân,
Từ-công riêng nghĩ mười phân hồ đồ:[601]

Một tay gầy-dựng cơ-đồ,
bấy lâu biển Sở sông Ngô tung-oành.
Bó thân về với triều-đình,
hàng thần lơ-láo, phận mình ra đâu?
Áo xiêm buộc-trói lấy nhau,
vào lòn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên-thùy,
sức nầy đã dễ làm gì được nhau.
Đục trời khuấy nước mặc dầu,
dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Nàng thì thật dạ tin người,
lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
đã nhiều lưu-lạc, lại nhiều gian-chuân.[602]
Rằng: nay chịu tiếng vương thần,
thinh-thinh đàng cái, thanh vân hẹp gì?
Công tư vẹn cả hai bề,
dần-dà rồi sẽ liệu về cố-hương.
Cũng ngôi mạng-phụ đường-đường,[603]
nở-nang mày-mặt rỡ-ràng mẹ cha.
Trên vì nước dưới vì nhà,
một là đắc hiếu, hai là đắc trung.
Chẳng hơn chiếc bá giữa dòng,
E-dè sóng gió, hãi hùng cỏ hoa.
Nhân khi bàn-bạc gần xa,
thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: trong thánh đế dồi-dào,[604]
rưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu.

Trong vòng tên đá bời-bời, thấy Từ còn đứng giữa trời trơ-trơ.
Khóc rằng: trí dỏng có thừa, bởi nghe lời thiếp đến cơ-hội nầy!

Bình-thành[605] công-đức bấy lâu,
ai-ai cũng đội trên đầu xiết bao?
Gẫm từ dấy việc binh-đao,
đống xương vô định đã cao hơn đầu.[606]
Làm chi để tiếng về sau,
ngàn năm ai có khen đâu Hoàng-sào?[607]
Sao bằng lộc trọng quyền cao,
công-danh ai dắc lôi nào cho qua?
Nghe lời nàng nói mặn-mà,
thế công Từ mới trở ra thế hàng.
Chỉnh nghi tiếp sứ vội-vàng,
hẹn kỳ thúc giáp,[608] quyết đàng giải binh.
Tin lời thành hạ yếu minh,[609]
ngọn cờ ngơ ngác,[610] trống canh sải-trường.
Việc binh bỏ chẳng giữ-giàng,
vương sư[611] dòm đã tỏ-tường thật hư.

Hồ-tông-Hiến, dùng kế tiền sứ hậu binh, nên Từ-Hải tức mình bị bắn chết mà không ngã, nhờ có Túy-Kiều ra khóc-lóc thì mới ngã.

Hồ-công quyết kế thừa cơ,
lễ tiền binh hậu,[612] khắc kì giáp công.

Kéo cờ chiêu-phủ tiên-phong,
lễ-nghi giàn trước, vác-đồng phục sau.
Từ-công hơ-hững biết đâu,
đại quan lễ phục, ra đầu cữa viên.[613]
Hồ-công ám hiệu[614] trận tiền,
ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
Đang khi bất-ý chẳng ngờ,
hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn.[615]
Tử sinh liều giữa trận tiền,
dạn-dày cho biết gan liền tướng quân.
Khí thiêng khi đã về thần,[616]
nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.[617]
Trơ như đá vững như đồng,
ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời,
Quan quân truy sát đuổi dài,
ù ù sát khí ngất trời ai đang.
Trong hào ngoài lũy tan-hoang,
loạn quân vừa dắc tay nàng đến nơi.
Trong vòng tên đá bời-bời,
thấy Từ còn đứng giữa trời trơ-trơ
Khóc rằng: trí dõng có thừa,
bỡi nghe lời thiếp đến cơ-hội nầy!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
thà liều sống chết một ngày với nhau.
Dòng thu như chảy mạch sầu,
dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
Lạ thay oan khí tương triền,[618]
nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra!

Quan quân kẻ lại người qua,
xót nàng sẽ lại vực ra dần-dần.

Quân bắt Túy-Kiều đem vô, Hồ-tông-Hiến hỏi Túy-Kiều muốn xin đi-gì với Triều-đình vì có công đã giúp lời cho Từ-Hải ra đầu. Túy-Kiều bẩm không có công gì, một xin xác Từ-Hải đem về chôn.

Đem vào đến trước trung quân,
Hồ-Công thấy mặt ân-cần hỏi-han.
Rằng: nàng chút phận hồng nhan,
gặp cơn binh-cách[619] nhiều nàn cũng thương.
Đã hay thành toán miễu đường,[620]
giúp công cũng có lời nường mới nên.
Bây-giờ sự đã vẹn-tuyền,
mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?
Nàng càng đổ ngọc tuôn dào,
ngập-ngừng mới gởi thấp cao sự lòng.
Rằng: Từ là đứng anh-hùng,
dọc ngang trời rộng, vẫy vùng biển khơi.
Tin tôi nên quá nghe lời,
đưa thân bá chiến làm tôi triều-đình.
Ngỡ là phu quí thê vinh,[621]
ai ngờ một phút tan-tành thịt xương.
Năm năm trời biển ngang-tàng,
đem mình đi bỏ chiến-tràng như không!

Trong quân mở tiệc hạ công, xôn-xao tơ trúc, hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yến dưới màn, dở say lại ép vặn đàn nhặt tâu.

Hại chồng kể lấy làm công,
kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Xét mình công ít tội nhiều,
sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
Xin cho tiện thổ[622] một doi,
gọi là đắp-điếm lấy người tử sinh.
Hồ-Công nghe nói thương tình,
truyền cho kiểu táng di hình[623] bên sông.

Hồ-tông-Hiến mở tiếc đải quan quân tướng sĩ, và đòi Túy-Kiều vào đờn chơi một đêm. Sáng ra giựt mình sợ e tội với Triều-đình, nên đem Túy-Kiều gả cho Thổ-quan đất ấy.

Trong quân mở tiệc hạ công,
xôn-xao tơ trúc, hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yến dưới màn,
dở say lại ép vặn đàn nhặt tâu.
Một cung gió thảm mưa sầu,
bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Ve kêu vượn hót nào tày,
lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hỏi rằng: nầy khúc ở-đâu?
nghe ra muôn thảm ngàn sầu lắm thay?
Thưa rằng: bạc-phận khúc nầy,
phổ vào[624] đờn ấy những ngày còn thơ.
Cung đờn lựa những ngày xưa,
mà gương bạc-mạng bây-giờ là đây.
Nghe càng ngấm, ngấm càng say,
lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!

Dạy rằng: hương hỏa ba sinh,
dây loan xin nối kim lành cho ai.[625]
Thưa rằng: chút phận lạc loài,
trong mình nghĩ đã có người thác oan.
Còn chi nữa cánh hoa tàn,
tơ lòng đã dứt dây đờn Tiểu-lân.[626]
Rộng cho còn mảnh hồng-quần,
hơi tàn được thấy góc phần là may:
Hạ công chén đã quá say,
Hồ-công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
Nghĩ mình phương-diện quốc-gia,
quan trên nhắm xuống, người-ta trông vào.
Phải tuồng trăng gió hay sao?
sự nầy biết tính thế nào được đây?
Tảo-nha[627] vừa buổi rạng ngày,
quyết tình Công mới đoán ngay một bài:
Lệnh quan ai dám cải lời,
ép tình mới gán cho người thổ-quan.
Ông-tơ thật nhẽ đa-đoan,[628]
xe tơ khen khéo vơ quàng vơ xiên.
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
lá màn xủ thấp, ngọn đèn khêu cao.
Nàng càng ủ liễu phai đào,
trăm phần nào có phần nào phần tươi?
Đành thân cát dập sóng vùi,
cướp công cha mẹ, thiệt đời thông-minh.

Chơn trời mặt biển lênh-đênh,
nắm xương biết gởi tử-sinh chốn nào?
Duyên đâu ai dắc tơ đào,
nợ đâu ai đã dắc vào tận tay?
Thân sao thân đến thế nầy!
còn ngày nào cũng dơ ngày ấy thôi.
Đã không biết sống là vui,
hoài thân nào biết thiệt-thòi là thương!
Một mình cay-đắng trăm đường,
thôi thì nát ngọc tan vàng là thôi.

Thổ-quan rước Túy-Kiều đi đến sông Tiền-đường, liền nhớ lại lời tiên-tri bà Giác-sư và lời lúc thần mộng Đạm-Tiên đã nói, bèn đâm đầu nhảy xuống sông.

Mảnh gương đã ngậm non đoài,[629]
một mình luống những đứng ngồi chửa xong.
Triều[630] đâu nổi tiếng đùng đùng,
hỏi ra mới biết rằng sông Tiền-đường.
Nhớ lời thần mộng rõ-ràng,
nầy thôi hết kiếp đoạn-tràng là đây:
Đạm Tiên nàng hởi có hay!
hẹn ta thì đợi dưới nầy rước ta.
Dưới đèn sẵn bức tiên-hoa,[631]
một thiên tuyệt bút[632] gọi là để sau.
Cửa bòng vội mở rèm châu,
trời cao biển rộng một màu bao-la.[633]

Kiều từ gieo xuống dòng ngân, nước xuôi bổng đã trôi dần tạn nơi.
Ngư-ông cất lưới vớt người, gẫm lời Tam-hiệp rỏ mười chẳng ngoa.

Rằng: Từ-công hậu đãi ta,
chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
Giết chồng mà lại lấy chồng,
mặt nào còn lại đứng trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi,
tấm lòng phú mặt trên trời dưới sông.
Trông vơi con nước mênh-mông,
đem mình gieo xuống giữa dòng tràng-giang.
Thổ-quan theo vớt vội-vàng,
thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi.
Thương thay cũng một thân người!
khéo thay mang lấy sắc tài làm chi?
Những là oan-khổ lưu-ly,[634]
chờ cho hết kiếp còn gì là thân?
Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
làm gương cho khách hồng-quần thử soi.
Đời người đến thế thì thôi,
trong cơ dương cực âm hồi không hay.[635]
Mấy người vì ngãi xưa nay,
trời làm chi đến lâu ngày càng thương?
Giác-duyên từ tiết giã nàng,
treo bầu quảy níp rộng đàng vân du.[636]
Gặp bà Tam-hạp đạo cô,
thung-dung hỏi hết nhỏ to sự nàng.
Người sao hiếu nghĩa đủ đàng?
kiếp sao mắc những đoạn tràng thế thôi?
rằng: họa phước đạo trời,
cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.

Có trời mà cũng tại ta,
tu là cội phước, tình là dây oan.[637]
Túy-kiều sắc-sảo khôn-ngoan,
vô duyên là phận hồng-nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
khư-khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong-dong,
ở không yên-ổn, ngồi không vững-vàng.
Ma dắc lối, quỉ đem đàng,
lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Hết nạn ấy đến nạn kia,
thanh-lâu hai lượt thanh-y hai lần.[638]
Trong vòng giáo dựng gươm trần,
kề răng hùm sói, gởi thân tôi-đòi.
Giữa dòng nước chảy sóng dồi,
trước hàm rồng cá, gieo mình thủy tinh.
Oan kia theo mãi vuối tình,
một mình mình biết, một mình mình hay.
Làm cho sống đọa thác đày,
đoạn trường cho hết kiếp nầy mới thôi.
Giác-duyên nghe nói rụng-rời,
một đời nàng hỡi thương ôi còn gì!
rằng: song chẳng hề chi,
nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
Xét trong tội-nghiệp Túy-kiều!
mắc đều tình-ái khỏi đều tà-dâm.[639]

Lấy tình thâm, trả ngãi thâm,
bán mình đã động hiếu tâm đến trời.
Hại một người cứu muôn người,
biết đàng khinh trọng, biết lời phải chăng.
Thửa công đức ấy ai bằng?
túc khiên đã rữa rưng-rưng sạch rồi.
Khi nên trời cũng chìu người,
nhẹ-nhàng nợ trước, đền-bồi ơn sau.
Giác-duyên dầu nhớ nghĩa nhau,
Tiền-đường thả một vi lau[640] rước người.

Bà Giác-duyên nghe lời tiên-tri bà Giác-sư đã nói trước nên đã tới che lều ở đó sớm tối mướn chài, chài lên chài xuống hoài, khi ấy mới chài được Túy-Kiều vớt lên đem về am nuôi.

Trước sau cho vẹn một lời,
duyên ta mà cũng phước trời chi không.
Giác-duyên nghe nói mầng lòng,
lân-la tìm thú bên sông Tiền-đường.
Đánh tranh nhóm nóc thảo đường,[641]
một gian nước biếc, mây vàng chia đôi.[642]
Mướn năm ngư-phủ hai người,
đóng thuyền chực bến, kết chài giăng sông.
Một lòng chẳng quản mấy công,
khéo trong gặp-gỡ, cũng trong chuyển-vần.[643]

Đánh liều lên tiếng ngoài đường, chàng Vương nghe tiếng vội-vàng chạy ra.
Dắc tay vội bước vào nhà, mái sau Viên-ngoại ông bà ra ngay.

Kiều từ gieo xuống dòng ngân,
nước xuôi bỗng đã trôi dần tạn nơi.
Ngư-ông cất lưới vớt người,
gẫm lời Tam-hiệp rõ mười chẳng ngoa.
Trên mai ướt lột áo là,[644]
tuy dầm hơi nước, chửa lòa bóng gương.
Giác-duyên nhận thật mặt nàng,
nàng còn thíp-thíp, giấc vàng chửa phai.
Mơ-màng phách quế hồn mai,
Đạm-tiên thoát đã thấy người ngày xưa.
Rằng: tôi đã có lòng chờ,
mất công đã mấy năm thừa ở đây.
Chị sao phận mỏng đức dày,
kiếp nầy cũng vậy, lòng nầy dễ ai?
Tấm thành đã thấu đến trời,
bán mình là hiếu, cứu người là nhân.
Một mình vì nước vì dân,
dương-công[645] nhắc một đồng cân đã già.
Đoạn trường sổ rút tên ra,
đoạn trường phải đến để mà giã nhau.
Còn nhiều hưởng thọ về sau,
duyên xưa tròn-trặn phước sau dồi-dào.
Nàng còn ngơ-ngẩn biết sao,
Trạc-tuyền nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giựt mình thoát tỉnh giấc mai,
bâng-khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền nào thấy Đạm-tiên?
bên mình chỉ thấy Giác-duyên ngồi kề.

Thấy nhau mầng-rỡ trăm bề,
dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư;[646]
Một nhà chung-chạ sớm trưa,
gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng.
Bốn bề bát-ngát mênh-mông,
triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau.[647]
Nạn xưa trút sạch làu-làu,
duyên xưa chửa dể biết đâu chốn nầy?
Nổi nàng tai-hại đã đầy,
nỗi chàng Kim-trọng bấy chầy mới thương!

Kim-Trọng chịu tang Thúc-phụ rồi, trở qua thì thấy nhà cữa Túy-Kiều đâu mất. Hỏi thăm, gặp Vương-Quan đam vào nhà ra mắt ông bà Viên-ngoại.

Từ ngày muôn dặm trì tang,[648]
nửa năm ở đất Liêu-dương lại nhà.
Vội sang vườn túy dò-la,
nhìn phong-cảnh cũ, nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
song trăng quạnh-quẽ, vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Quế hoa én lạnh rường không,
cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.

Cuối tường gai-gốc mọc đầy,
đi về nầy những lối nầy năm xưa.
Đông-quanh lặng-ngắt như tờ,
nỗi niềm tâm-sự bây-giờ hỏi ai.
Láng-riềng có kẻ sang chơi,
Lân-la sẽ hỏi một hai sự tình:
Hỏi ông, ông mắc tụng đình,
hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà, nhà đã dời xa,
hỏi chàng Vương vuối cùng là Túy-vân.
Đều là sa-sút[649] khó-khăn,
may thuê, viết mướn, kiếm ăn lần-hồi.
Đều đâu sét đánh lưng trời!
thoát nghe chàng thoát rụng-rời xiết bao?
Hỏi thăm di trú nơi nào?
đánh đường chàng mới tìm vào tạn nơi.
Nhà tranh vách đất tả-tơi,
rêu lan rèm nát, trước gài phên thưa.[650]
Một sân đất cỏ dầm mưa,
càng ngao ngán nỗi, càng ngơ-ngẩn đường!
Đánh liều lên tiếng ngoài đường,
chàng Vương nghe tiếng vội-vàng chạy ra.
Dắc tay vội bước vào nhà,
mái sau Viên-ngoại ông bà ra ngay.
Khóc than kể hết niềm tây:
chàng ôi biết nỗi nước nầy cho chưa?
Kiều-nhi phận mỏng như tờ,
một lời đã lỗi tóc-tơ vuối chàng.

Vội vàng sắm-sửa chọn ngày, duyên Vân sớm đã nối dây cho chàng.
Người yểu-điệu, kẻ văn chương, trai tài, gái sắc, xuân đương kịp thì.

Gặp cơn gia biến lạ dường,
bán mình nó đã tìm đường cứu cha.
Dùng dằng khi bước chân ra,
cực trăm ngàn nỗi, dặn ba bốn lần.
Trót lời nặng vuối lang-quân,
mượn con em nó, Túy-Vân thay lời.
Gọi là trả chút ngãi người,
sầu nầy dặc dặc, muôn đời chửa quên.
Kiếp nầy duyên đã phụ duyên,
dạ đài[651] còn biết sẽ đền lai sinh.
Mấy lời ký chú đinh ninh,
ghi lòng để dạ, cất mình ra đi.
Phận sao bạc bấy Kiều-nhi!
chàng Kim về đó con thì đi đâu?
Ông bà càng nói càng đau,
chàng càng nghe nói, càng rầu như dưa.[652]
Vật mình chải gió tuôn mưa,
dầm dề giọt ngọc dật-dờ hồn mai.
Đau đòi đoạn, ngất đòi hồi,
tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê.
Thấy chàng đau nỗi biệt-ly,
ngần-ngừ ông mới vỗ-về lại khuyên:
Bây-giờ ván đã đóng thuyền,
đã đành phận bạc, khôn đền tình chung.
Quá thương chút nghĩa đèo-bòng,
ngàn vàng thân ấy thì hòng bỏ sao?
Dỗ-dành khuyên giải trăm chìu,
lửa phiền khôn dập, càng khêu mối phiền.

Thề xưa dở đến kim huờn,[653]
của xưa lại dở đến đờn vuối hương.[654]
Sanh càng trông thấy càng thương,
gan càng tức tối, ruột càng xót-xa.
Rằng: tôi trót quá chơn ra
để cho đến nỗi trôi hoa giạt bèo.
Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
những đều vàng đá phải đều nói không?
Chưa chăn gối, cũng vợ chồng,
lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
còn tôi, tôi một gặp nàng mới thôi.

Kim-Trọng rước ông bà Viên-ngoại về nuôi, và mướn người đi kiếm Túy-Kiều. Kim-Trọng cưới Túy-Vân thế cho Túy-Kiều.

Nỗi thương nói chẳng hết lời,
tạ-từ Sanh mới sụt-sùi trở ra.
Vội về sửa chốn vườn hoa,
rước mời Viên-ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn[655] chăm-chút lễ thường,
dưỡng thân thay tấm lòng nường ngày xưa.
Đinh-ninh mài lụy chép thơ,
cắt người tìm-tỏi, đưa tờ nhắn nhe.

Biết bao công mướn của thuê?
Lâm-tri mấy độ đi về dặm khơi.
Người một nơi hỏi một nơi,
mênh-mông nào biết biển trời nơi nao?
Sanh càng thảm-thiết khát-khao,
như nung gan sắt, như bào lòng son.
Ruột tằm ngày một héo-don,
tuyết sương ngày một hao mòn mình ve.
Thẩn-thơ lúc tỉnh lúc mê,
máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao.
Xuân huyên lo sợ xiết bao,
quá ra khi đến thế nào mà hay?
Vội-vàng sắm-sửa chọn ngày,
duyên Vân sớm đã nối dây cho chàng.
Người yểu-điệu, kẻ văn chương
trai tài, gái sắc, xuân đương kịp thì.
Tuy rằng: vui chữ vu-qui,
vui nầy đã cất sầu kia đặng nào?
Khi ăn-ở, lúc ra-vào,
càng âu duyên mới, càng dào tình xưa.
Nỗi nàng nhớ đến bây-giờ,
tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng-vẻ hiên phòng,
đốt lò hương dở phím đờn ngày xưa.
Bẻ-bai rủ-rỉ tiếng tơ,
trầm bay lạt khói, gió đưa lay rèm.
Dường như bên nóc trước thềm,
tiếng Kiều đồng vọng, bỗng thêm mơ-màng.
Bỡi lòng tạc đá ghi vàng,
tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
Những là phiền muộn đêm ngày,
xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?

Đến khoa gặp hội trường vân, Vương, Kim, cũng chiếm bảng xuân một ngày.
Cửa trời mở rộng đàng mây, huê chào ngỏ hạnh, hương bay dặm phần.

Kim-Trọng với Vương-Quan thi đậu vua sai đi ngồi tri-huyện Lâm-tri.

Đến khoa gặp hội trường vân,
Vương, Kim cũng chiếm bảng xuân một ngày.
Cửa trời mở rộng đàng mây,
huê chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần.
Chàng Vương nhớ đến xa gần,
sang nhà Chung-lão tạ ơn châu triền.[656]
Tình xưa ơn trả ngãi đền,
gia thân bèn mới kết duyên Châu-Trần.
Chàng càng nhẹ bước thanh vân,
nỗi chàng càng nghĩ xa gần càng thương:
Ấy ai dặn ngọc thề vàng
bây giờ kim-mã[657] ngọc-đàng[658] vuối ai?
Ngọn bèo chơn sóng lạc loài,
nghĩ mình vinh-hiển thương người lưu ly!
Vâng ra ngoại nhậm Lâm-tri,
quan-sơn ngàn dặm thê-nhi một đoàn.
Cầm đường[659] ngày tháng thanh-nhàn,
sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu-dao.
Phòng hương trướng xủ huê đào,
nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới dỉ cùng chàng,
nghe lời chàng cũng hai đàng tin nghi:

Nọ Lâm thanh vuối Lâm tri,
khác nhau một chữ, hoặc khi có lầm.
Trong cơ thanh khí tương tầm,
ở đây hoặc có giai âm chăng là.
Thăng đường chàng mới hỏi tra,
họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
Sự nầy đã ngoại mười niên,
tôi đà biết mặt biết tên rành-rành.
Tú-bà cùng Mã-giám-sanh,
đi mua người ở Bắc-kinh đưa về.
Túy-kiều tài sắc ai bì?
có nghề đờn, lại đủ nghề văn-thơ.
Kiên trinh[660] chẳng phải gan vừa,
liều mình thế ấy, phải lừa thế kia.[661]
Phong-trần chịu đã ê hề,
dây duyên sau lại gả về Thúc-lang.
Phải tay vợ cả phụ-phàng,
bắt về Vô-tích toan đàng bẻ hoa.
Cất mình nàng mới trốn ra,
chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
Thoạt mua về, thoạt bán đi,
mây trôi bèo nổi, thiếu gì là nơi?
Bỗng đâu lại gặp một người,
hơn người trí dõng nghiêng trời oai linh.
Trong tay muôn vạn tinh binh,
kéo về đóng chật một thành Lâm-tri.
Tóc tơ các tích mọi khi,
oán thì trả oán, ơn thì đền ơn.

Đã nên có ngãi có nhân,
trước sau trọn-vẹn xa gần ngợi-khen.
Chửa tường được họ được tên,
sự nầy hỏi Thúc-sanh viên mới tường.
Nghe lời Đô nói rõ-ràng,
tức-thì tống trát đòi chàng Thúc-sanh.
Nỗi nàng hỏi hết phân-minh,
chồng con đâu tá,[662] tánh danh là gì?
Thúc rằng: gặp lúc loạn-li,
trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc-tơ.
Đại-vương tên Hải họ Từ
đánh quen trăm trận, sức dư muôn người.
Gặp nàng ngày ở Châu-thai,
lạ chi quốc-sắc thiên-tài phải duyên.
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
làm nên động-địa kinh thiên đùng-đùng.
Đại quân đồn đóng cõi đông,
về sau chẳng biết vân-mồng[663] làm sao.
Nghe tường nhành ngọn tiêu-hao,
lòng riêng chàng luống lao-đao thẩn-thờ.
Xót thay chiếc lá bơ-vơ,
kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
xót thân chìm nổi, đau lòng hiệp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
mảnh hương còn đó, phím đàn còn đây.
Đờn-cầm khéo ngẩn-ngơ dây,
lò hương biết có kiếp nầy nữa thôi

Cơ duyên đâu bỗng lạ sao? Giác duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
Trông lên linh-vị chữ bài, thất-kinh mới hỏi những người đâu ta?

Bình bồng còn chút xa-xôi,
đỉnh-chung[664] sao nỡ ăn ngồi cho an?
Rấp mong treo ấn từ quan,
mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng pha.
Sấn mình trong đám can-qua,
vào sanh ra tử, họa là thấy nhau:
Nghĩ đều trời thẳm vực sâu,
hóng chim tăm cá, biết đâu mà nhìn.
Những là nấn-ná[665] đợi tin,
nắng mưa đã biết mấy phen đổi-dời?

Năm ấy cải nhậm, vua sai đi ngồi xứ khác; hai anh em đi tới sông Tiền-đường, nghe nói Túy-Kiều chết tại đó thì rước thầy làm chay, đặt bài vị mà cúng.

Năm mây đã thấy chiếu trời,[666]
khâm-sai sắc-chỉ đến nơi rành-rành.
Kim thì cải nhậm Nam-bình,
chàng Vương cũng cải nhậm thành Hoài-dương.
Sắm-sanh xe ngựa vội-vàng,
hai nhà cũng thuận một đàng phó quan.[667]
Xảy nghe thế giặc đã tan,
sóng êm Phước-kiến, tro tàn Tích-giang.
Được tin Kim mới rủ Vương,
tiện đàng cùng lại tìm nường sau xưa.

Viện-châu đến đó bây-giờ,
thật tin hỏi được tóc-tơ rành rành.
Rằng: ngày hôm nọ giao binh,
thất cơ Từ đã thâu linh[668] trận tiền.
Nàng Kiều công cả chẳng đền,
lệnh quan lại bắt ép duyên thổ-tù.[669]
Nàng đà gieo ngọc trầm chu,
sông Tiền-đường đó, ấy mồ hồng nhan.
Thương ôi! không hiệp mà tan,
một nhà vang-hiển riêng oan một nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
giải oan lập một đàn-trường bên sông.[670]
Ngọn triều non bạc trùng-trùng,[671]
vọi trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo,
Tình thâm biển thảm lạ chìu,
nào hồn tinh-vệ[672] biết xiêu chốn nào?

Bà Giác-duyên đi coi thấy mộc-vị thì biết là tế Túy-Kiều, mới hỏi là ai tới làm chay; biết được là cha mẹ, anh em Túy-Kiều, thì nói nó còn sống ở tại am mình.

Cơ duyên đâu bỗng lạ sao?
Giác-Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
Trông lên linh-vị chữ bài,
thất-kinh mới hỏi những người đâu ta?

Vuối nàng thân-thích gần xa,
người còn sao bỗng làm ma khóc người?
Nghe tin giớn-giác rụng-rời,
xúm quanh kể họ rộn lời hỏi tra:
Nầy chồng nầy mẹ, nầy cha,
nầy là em ruột, nầy là em dâu.
Thật tin nghe đã bấy lâu,
pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!
rằng: nhân quả[673] vuối nường,
Lâm-tri buổi trước Tiền-đường buổi sau.
Khi nàng gieo ngọc đáy sâu,
đón theo tôi đã gặp nhau rước về.
Cùng nhau nương cữa Bồ-đề,
thảo-am đó cũng gần kề chẳng xa.
Phật-tiền nhà bạc lân-la,
đăm-đăm[674] nàng cũng nhớ nhà không khuây.
Nghe tin nở mặt nở mày,
mầng nào lại quá mầng nầy nữa chăng?
Từ phen chiếc lá lìa rừng,
thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
Rõ-ràng hoa rụng hương bay,
kiếp sau họa thấy kiếp nầy hản thôi.
Âm-dương đôi ngã chắc rồi,
cõi trần mà lại thấy người cửu-nguyên!

Dắc về nhìn ra thiệt tích; đem Túy-Kiều về nó không chịu về. Cha mẹ la-dức nói có muốn tu thì lập am tại nhà cho mà tu cùng rước bà Giác-duyên về nữa, thì nó mới chịu về.

Sắp nhau lạy tạ Giác-Duyên,
bộ-hành một lủ theo liền một khi.

Bẻ lau vạch cỏ tìm đi, tình thâm huống hãy hồ-nghi nửa phần.
Quanh co theo dãi giang tân, khỏi rừng lau đã tới sân Phật-đàng.

Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
tình thâm luống hãy hồ-nghi nửa phần.
Quanh-co theo dãi giang tân,[675]
khỏi rừng lau đã tới sân Phật-đàng.
Giác-Duyên lên tiếng gọi nàng,
phòng trong vội khiến sen vàng bước ra.
Rõ ràng đủ mặt một nhà,
xuân già còn mạnh, huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hòa hai,
nọ chàng Kim đó là người ngày xưa.
Tưởng bây-giờ lại bao-giờ?
rõ-ràng mở mắt còn ngờ chiêm-bao.
Giọt châu thảnh-thót quyển bào,[676]
mầng-mầng sợ-sợ biết bao là tình!
Huyên già dưới cội gieo mình,
khóc than mình kể sự mình đầu đuôi:
Từ con lưu-lạc quê người,
bèo trôi sóng bủa chốc mười lăm năm.
Tính rằng: sông nước cát lầm,
kiếp nầy ai lại còn cầm được đây?
Ông bà nhìn mặt cầm tay,
dung-quang chẳng khác gì ngày bước ra.
Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
Nỗi mầng ông lấy gì cân?
lời tan hiệp truyện xa gần thiếu đâu?
Hai em hỏi trước han sau,
đứng trông nàng đã trở sầu làm tươi.

Sắp nhau lạy trước Phật-đài,
tái sanh trần tạ, lòng người từ-bi.
Kiệu hoa giục rước tức thì,
Vương-ông dạy rước cùng về một nơi.
Nàng rằng: chút phận hoa rơi,
nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
Tính rằng: mặt nước chơn mây,
lòng nào còn tưởng có rày nữa không.
Được rày tái thế tương-phùng,
khát-khao đã thỏa tấm lòng lâu nay.
Đã đem mình bỏ am mây,
tuổi nầy gởi với cỏ cây cũng vừa.
Mùi thiền đã bén muối dưa,
màu thiền ăn-mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?
Dở-dang nào có hay gì?
đã tu tu trót quá thì thì thôi.
Trùng sanh ơn nặng bể trời,
lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: bỉ thử nhứt thì,
tu-hành thì cũng phải khi tùng quyền.
Phải đều cầu phật cầu tiên,
tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
Độ sanh[677] nhờ đức cao dày,
lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.
Nghe lời nàng phải chìu lòng,
giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
Một đàng về đến quan-nha,
đoàn viên[678] vội mở tiệc hoa vui-vầy.

Tà-tà chén cúc dở say,
đứng lên Vân mới giải bày một hai.
Rằng: trong tác hiệp cơ trời,
hai bên gặp-gỡ một lời kết-giao.
Gặp cơn bình địa ba đào,
mà đem duyên chị gá vào cho em.
Cũng là phận cải duyên kim,
cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
Những là rày ước mai ao,
mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình?
Bây-giờ gương bể[679] lại lành,
khuôn linh[680] lừa-đảo đã dành có nơi.
Còn duyên may lại còn người,
còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
Trái mai ba bảy khi vừa,[681]
đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Dứt lời nàng mới gạt đi,
sự muôn năm cũ kể chi bây-giờ?
Một lời tuy có ước xưa,
xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều.
Nói càng hổ-thẹn trăm chìu,
thì cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi.
Chàng rằng: nói cũng lạ đời,
dẫu lòng kia vậy, còn lời ấy sao?

Rỏ-ràng đủ mặt một nhà, xuân già còn mạnh, huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hòa hai, nọ chàng Kim đó là người ngày xưa.

Một lời đã trót thâm giao,
dưới thời có đất, trên cao có trời.
Dẫu rằng: vật đổi sao đời,[682]
tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh.
Duyên kia có phụ chi mình,
mà toan chia gánh chung tình làm hai?
Nàng rằng: gia-thất duyên hài,
chút lòng ân-ái ai-ai cũng lòng.
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
hoa thơm phong nhị[683] trăng tròn ngậm gương.
Chữ trinh đáng giá ngàn vàng,
đuốc hoa chẳng thẹn vuối chàng mai xưa.
Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
ong qua bướm lại đã thừa xấu-xa.
Bấy chầy gió táp mưa sa,
mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng-nhan,
đã xong thân thể còn toan nổi nào?
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao?
dám đem trần cấu[684] dựa vào bố kinh?[685]
Đã hay chàng nặng vì tình,
trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?
Từ rày khép cửa phòng thu,
chẳng tu thì cũng là tu mới là.
Chàng dầu nghĩ đến gần xa,
đem tình cầm sắt,[686] đỗi ra cầm cờ.[687]

Nói chi kết tóc xe tơ?
đã buồn cả bụng lại nhơ cả đời!
Chàng rằng: khéo nói nên lời!
mà trong lẽ, phải có người có ta.
Xưa nay trong đạo đàn-bà,
chữ trinh kia cũng có ba bảy đường:
Có khi biến, có khi thường,
có quyền nào phải một đường chấp kinh?
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
bụi nào cho đóng được mình ấy vay?
Trời còn dây có hôm-nay,
tan sương biết tỏ áng mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
Có đều gì nữa mà ngờ,
khách qua đường để hẫng-hờ chàng Tiêu.[688]
Nghe chàng nói đã hết điều,
hai thân thì cũng quyết theo một bài.
Hết lời khôn lẽ chối lời,
cúi đầu nàng những vắn dài thở-than.
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
Cùng nhau giao bái[689] một nhà,
lễ đà đủ lễ, đôi đà đủ đôi.

Động phòng dìu-dặt chén mồi,[690]
bâng-khuâng duyên mới ngậm-ngùi tình xưa.
Những từ sen ngó đào thơ,
mười lăm năm mới bây-giờ là đây!
Tình duyên ấy, hiệp tan nầy!
bi hoan mấy nỗi đêm nầy trăng cao.
Canh khuya bức gấm xủ thao,
dưới đèn tỏ nghĩa, má đào thêm xuân.
Tình-nhân lại gặp tình-nhân,
hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
Nàng rằng: phận thiếp đã đành,
có làm chi nữa cái mình bỏ đi.
Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
chìu lòng gọi có xướng tùy mảy-may.[691]
Riêng lòng đã thẹn lắm thay!
cũng đà mặt dạn mày dày khó coi.
Những như âu-yếm[692] vòng ngoài,
còn toan mở mặt với người cho qua
Lại như những thói người-ta,
vét hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa.
Cũng ra dỡ nhuốc bày trò,
còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi.
Người yêu, ta xấu vuối người,
yêu nhau thôi lại bằng mười phụ nhau.
Cửa-nhà đều tính về sau,
thì đà em đó, lựa cầu chị đây?
Chữ trinh còn một chút nầy,
chẳng cầm cho vững lại giày cho tan.

Sư đà hái thuốc phương xa, mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
Nặng vì chút nghĩa xưa nay, lên am cứ giữ hương dầu hôm mai.

Còn nhiều ân-ái chan-chan,
hay chi vậy cái hoa tàn mà chơi?
Chàng rằng: gắn-vó một lời,
bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau?
Xót người lưu-lạc bấy lâu!
tưởng thề-thốt nặng những đau-đớn nhiều.
Thương nhau sanh tử đã liều,
đưa nhau còn thiếu bấy nhiêu là tình.
Vườn xuân tơ liễu còn xanh,
nghĩ chưa chưa thoát khỏi vành ái ân.
Gương trong chẳng chút bụi trần,
một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm.
Bấy lâu đáy biển mò kim,
đã nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa.
A ngờ lại hiệp một nhà,
lựa là chăn gối mới ra sắt cầm?
Nghe lời sữa áo cài trâm,
khấu đầu lạy trước cao thâm ngàn trùng,
Thân tàn gạn đục khoi[693] trong,
là nhờ quân-tử khác lòng người-ta.
Mấy lời tâm-phúc ruột-rà,
tương-tri nghĩa ấy mới là tương-tri.
Chở-che ràng-buộc thiếu gì?
trăm năm danh tiết cũng về đêm nay.
Cùng nhau tay lại cầm tay,
càng yêu vì nết càng say vì tình.
Thêm nồng giá nỗi hương bình,
cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan.
Tình xưa lai-láng khôn hàn,
thung-dung lại hỏi ngón đàn ngày xưa?

Nàng rằng: vì mấy đường tơ,
đắm người cho đến bây-giờ mới thôi.
Ăn-năn thì sự đã rồi,
nể lòng người cũ vâng lời một phen.
Phím đờn dìu-dặt tay tiên,
bổng trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
Khúc đâu đầm-ấm dương hòa,
ấy là Hồ-điệp hay là Trang-sanh.[694]
Khúc đâu êm-ái xuân tình,
ấy hồn Thục-đế[695] hay mình đỗ-quyên.
Trong sao châu nhỏ gành quyên,
ấm sao hột ngọc Lam-điền mới đông.
Lọt tai nghe suốt năm cung,
tiếng nào là chẳng não-nùng xôn-xao?
Chàng rằng: nhấn ấy tay nào,
xưa sao sầu-thảm nay sao vui-vầy?
Thương vui bởi tại lòng nầy,
hay là khổ tận, đến ngày cam lai?
Nàng rằng: vì chút hay chơi,
đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu.
Một phen tri-kỷ cùng nhau,
cuốn dây từ ấy về sau cũng chừa.

Truyện-trò chửa cạn tóc-tơ,
gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông.
Tình riêng chàng lại nói cùng,
một nhà ai cũng lạ-lùng khen sao.
Cho hay thục-nữ chí cao,
phải người sớm mận tối đào như ai?[696]
Hai tình vẹn-vẽ và hai,
chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ.
Khi chén rượu lúc cuộc-cờ,
khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.
Ba sanh đã phỉ mười nguyền,
duyên đôi-lứa cũng là duyên bạn-bày.

Am tự lập xong rồi, cho đi tìm rước bà Giác-Duyên thì đã mất đi bao giờ biệt tin biệt tích.

Nhớ lời lập một am mây,
khiến người thân-thích rước thầy Giác-Duyên.
Đến nơi đóng cữa gài then,
rêu trùm trên ngạch, cỏ lên mái nhà.
Sư đà hái thuốc phương xa,[697]
mây bay hạc lánh biết là tìm đâu.?
Nặng vì chút nghĩa xưa sau,
lên am cứ giữ hương dầu hôm mai.
Một nhà phước lộc gồm hai,
thiên niên vặc-vặc quan giai lần-lần.
Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
một cây kiều mộc, một sân quế hòe.[698]

Phong-lưu phú-quới ai bì?
vườn xuân một cửa để bia muôn đời.
Gẫm hay muôn sự tại trời,
trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong-trần phải phong-trần,
cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào?
chữ tài chữ mạng dồi-dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài?
chữ tài liền vuối chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
cũng đừng trách lẫn trời gần chẳng xa.
Thẹn hờn cũng tại lòng ta,
chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lời quê lặt-lượm dông-dài,
mua vui cũng được một vài trống canh.


KIM, VÂN, KIỀU, TRUYỆN.

CHUNG

   




Chú thích

  1. — Đời người-ta một trăm năm làm hạn, vì vậy: « Ba vạn sáu ngàn ngày » « Bá niên giai lão. »
  2. — Hữu tài vô mạng, hữu mạng vô tài, tài mạng tương đố. Hễ có tài thì không có mạng, mà có mạng thì lại không có tài, nên rằng: tài mạng ghét nhau, ganh nhau.
  3. — Tam thập niên vi nhứt biến, thương hãi biến vi tang điền, tang điền biến vi thương hãi. — Chỉ cuộc đời hay đổi-dời. Vực hóa cồn, cồn hóa vực.
  4. — Kia rít ấy chời. — Được cái kia ít, thì cái ấy nhiều, không cân nhau bao-giờ.
  5. — Sách hay, bản hay.
  6. — Là Nam-kinh với Bắc-kinh. — Bắc là Yên-kinh, Nam là Kim-lăng.
  7. — Nàng Tố-nga, hay-là gã Hằng-nga, là thằng cuội ở trên trăng. — Chỉ là tiên, xinh-tốt.
  8. — Cốt-cách diệu-dàng như mai, tinh-thần trắng trong như tuyết.
  9. — Ngay-thẳng, tử-tế, đề-đạm.
  10. — Nhãn hoành thu thủy, mi tợ viễn sơn. — Con-mắt trong như nước mùa thu, chang-mày như hình núi coi xa.
  11. Thiên tư. — Tánh trời cho.
  12. — Là cung, thương, giác, trỉ, võ.
  13. Hồ cầm. — Cái nguyệt cầm. Dáng nó bởi bên mọi Hồ bày ra nên kêu là Hồ cầm.
  14. — Thập hữu ngũ niên nhi kê.— Đến mười lăm tuổi gái mới giắt trăm, nên kêu Tuần cập kê, là tới chừng mười lăm tuổi.
  15. — Cửu thập thiều quang. — Chỉ mùa xuân ba tháng (là 90 ngày) mà ngoài sáu mươi là đã qua khỏi hai tháng rồi, vừa qua mồng ba tháng ba.
  16. Tiết thanh-minh. — Ngày mồng ba tháng ba đi giẫy mả. — Hàn thực, tích Tấn-văn-công tìm Giá-tử-suy; cấm lửa ba ngày vì thương tiết Tử-suy bị đốt rừng cho mà ra mà không ra ở trong ấy mà chết.
  17. — Người-ta đông dập-dìu, chật như nêm.
  18. — Chiều, mặt-trời xiêng lặn.
  19. Nấm đất. — Mả, đắp mô lên.
  20. — Con hát. — Con đĩ.
  21. Mong-manh. — Mỏng-mẻo, mỏng-mảnh. Hồng nhan bạc phận.
  22. — Quốc-sắc thiên hương. — Trang mĩ nữ. — Con gái xinh.
  23. — Tình nhơn. — Người có tình, phải lòng....
  24. — Trâm chiết bình trầm. — Chết đi rồi.
  25. — Mình là chỉ con Đạm-tiên.
  26. — Chút đỉnh, chút xiểu.
  27. Níp giấy. — là rương để đồ minh-khí. — Xe châu — Nhà táng, nhà vàng, rạp để chôn xác.
  28. — Chôn cạn-cạn.
  29. — Biết đà bao lâu nam đã qua rồi. Nhựt nguyệt vãng lai bất tri kỷ niên. Thỏ là thỏ bạc — Mặt trăng. Ác là ác-vàng. — Mặt trời.
  30. — Tạo hóa công — Thợ trời; Đứng dựng nên trời đất muôn vật.
  31. — Thương hại thay!
  32. — Hoàng tuyền khách. — Suối vàng. Âm-phủ.
  33. Và gật — Vài cái gật đầu. — Lạy vài cái.
  34. Cỏ áy — Cỏ xấu. — Bóng tà. Chiều. (Thái dương ảnh tà).
  35. — Tử kiến tinh phách. — Thấy vía người mất. — Tinh anh (Sanh thị anh minh). Thông-minh.
  36. — Đường đi
  37. — Chỉ người có tính hay ve-vãn.
  38. — Con ngựa cu don-don.
  39. — Áo xanh. (Thiên thanh).
  40. Tự tình. — Nói chuyện.
  41. — Người tử-tế.
  42. — Ngó vô đám ấy thấy hai người con gái xinh lắm.
  43. Trâm anh. — Con nhà quan, con nhà tử-tế.
  44. — Con nhà giàu đã lâu đời, học hành giỏi.
  45. Phong nhã.— phong lưu nhã. — Hào hoa. — Lịch sự có thể có thiếp.
  46. — Xung-quanh. Chung-quanh
  47. — Quen lớn lại là bạn học.
  48. Đồng tước. — Đài đồng tước, đời hậu Hán, Tào-mạnh-đức làm ra để lấy cho được Đông-ngô bắt nhị kiều mà đem về đó.
  49. Toả xuân. — Khoá phòng xuân
  50. Buồng thêu. — Tú phòng. — Buồng con gái.
  51. — Gặp-gỡ nhau.
  52. Tuần đổ lá — là mùa đông lá rụng; Mai khi rụng lá hết đi rồi, thì mới trổ bông.
  53. Người quốc sắc. — Là Túy-Kiều. — Kẻ thiên tài, là chỉ về Kim-trọng.
  54. Tha-la. — Rã ra, phất-phơ.
  55. — Mặt trăng. —
  56. — Tròn tròn
  57. — Mặt trời đã lặn đi rồi, đêm thâm trang mọc đã gie bóng ra trước sân.
  58. — Tên cây hải đường nó rã ngọn qua nhà gần đó mà ở phía đông.
  59. — Đằm-đằm ngồi nhắm bóng trăng.
  60. — Don-ren. — Hỏi trong mình, nghĩ....
  61. Phiền hoa. — Lịch sự, xinh tốt
  62. — Khuya rồi.
  63. Phong-vận. — Xinh-tốt.
  64. Thanh-tân. — Sạch-sẽ.
  65. — Trên càn tơn vàng. Còn như đọc: sen vàng... thì chi là Đạm-Tiên đi tới mà bước trên là sen vàng Vua-Trụ mê làm cho con Đắt-Kỉ đi vậy.
  66. Thinh khí. (Đồng thinh tương ứng, đồng khí tương cầu).
  67. Hàn-gia.— Nhà nghèo. (Mả con Đạm-tiên).
  68. Hạ cố. — Ngó xuống. — Lạy, cúng, quải.
  69. Hạ tứ. — Cho xuống. (Làm thơ cho hay như ném châu gieo vàng).
  70. Hội chủ. — Mụ trùm. Coi lấy bọn đĩ-điếm.
  71. Đoạn-trường. — Sổ quản đi điếm.
  72. — Miệng thêu lòng gấm. — Khoa ngôn-ngữ.
  73. — Huyên đường. — Mẹ.
  74. Đôi nợ. — Công cha ngãi mẹ.
  75. Tóc-tơ. — Mảy-mún, mỏng-mảnh. (Dầu một chút cũng chưa đền được.)
  76. — Nước-mắt. (Mạch Tương — Mạch sông Tương. Chỉ bà Ngao-hoàng, Nữ-anh khóc chồng.......)
  77. — Chim vàng anh. (— Oanh.)
  78. — Xế chiều.
  79. — Mối tơ hồng.
  80. — Ngạy-ngạy.
  81. — Sự buồn rầu càng nghĩ thêm hoài.
  82. — Nhứt nhựt tam thu. (Một ngày bằng ba năm).
  83. — Mây mịt như trên Tần-lãnh.
  84. — Lúc gặp tại bụi hồng thể nào, thì lẻo-đẻo chiêm bao thấy hoài.
  85. — Trong tháng cuối muộn đi rồi, tim lụn dầu hao, đêm nào, đêm nấy, nghĩ nhớ Túy-kiều hoài.
  86. — Quyển sáo.
  87. — Đờn.
  88. — Sào tre. (Cũng vì tích nước-mắt Ngao-hoàng, Nữ-anh, tại sông Tương).
  89. — Phụ sanh chi, sư giáo chi, quân tự chi. — Nhân sanh ư tam, sự chi như nhứt.
  90. — Ngọn đế lau gió thổi hiu-hắt phất-phơ như giục cơn-sầu.
  91. — Có kiểng vật non bộ sẵn-sàng.
  92. — Hiệu đề: Lãm-túy-hiên thếp vàng.
  93. — Cửa sổ phất giấy.....
  94. — Tuy gần một bên mà cửa đóng nguyên-phong không thấy Túy-kiều ra.
  95. Tường gấm. — Vách tường dưới chơn có trồng bông hoa.
  96. Kim xoa. — Trâm vàng, trâm cúc.
  97. Tan sương. — Sáng ra.
  98. — Hiệp-phố thuộc về Annam thuở trước, là quận Hiệp-phố dưới bãi biển có châu nhiều mà sau quan Tàu qua trị dân, xâu-bơi nặng, đồ-khổ dân trốn đi quận khác, thì châu nó cũng đi mất đi hết; đến sau có quan thanh-liêm tử-tế tới chiêu qui, dân về thì chổ ấy có châu lại như trước; nên rằng: Châu về Hiệp-phố.
  99. Niềm tây. — Chuyện riêng, tình riêng.
  100. Là — Lụa-là, là-lượt.
  101. Một vuông. — Một cái khăn, như nói vuông, hay-là chuông nhiễu...
  102. Chăng nhe. — Phải không hé?
  103. Rụt-rè. — Thậm-thòi thậm-thụt.
  104. Ngẫu nhĩ. — Tình-cờ.
  105. — Cả tháng tròn những ấp cây chờ thỏ.
  106. — Bực đài gương cao trọng làm-vậy mà có đoái đến phận hèn như bèo nầy chăng.
  107. — Giá tuyết. — Trong sạch tử-tế như giá như tuyết.
  108. — Phỉ phong. — Kính đáo. — Gái còn trinh tiết.
  109. Lá thắm. — (Ngư câu hồng diệp), tích bà Hàn-phu-nhơn viết trong lá thả theo nước, ông Vu-hựu được, hoà thơ lại....... Đến sau phóng cung nữ ra, thì Vu-hựu chuộc về làm vợ. — Sau nói chuyện với nhau mới biết thiên duyên tại Hồng-diệp. — Chỉ-hồng. — Xích thằng hệ túc. — Nhơn-duyên.
  110. Si. — Ngây dại.
  111. — Linh cơ. — Tạo hóa lô. — Trời.
  112. Tấc thành. — Phương thốn. — Lòng thành.
  113. — Đeo đuổi.
  114. Như dầu. — Trơn lu.
  115. Kim hườn. — Chiếc neo, xuyến.
  116. Trăm năm. — Bá niên giai lão.
  117. Bả. — Cầm.
  118. Tất giao. — Keo sơn.
  119. Nông trờ. — Cạn xợt.
  120. Lá uá rụng, lộc đâm ra: qua xuân.
  121. Thì trân. — Đồ ngon theo mùa.
  122. — Non hộ đất.
  123. Động đào. — Đào nguyên động (Động-tiên).
  124. Thiên-thai. — Núi Tiên ở, Lưu-thần, Nguyễn triệu đi hái thuốc mà gặp Tiên.
  125. Lời vạn phước. — Lời con gái chào chúc.
  126. Hàn huyên. — Ấm lạnh.
  127. Phong nguyệt. — Gió trăng. — Hoa tình.
  128. — Thề nguyền, chỉ núi sông mà thề.
  129. — Tự nhiên.
  130. Phác họa. — Vẻ vụng.
  131. — Thổ ngọc phún châu. — Lời nói hay, thơ làm hay.
  132. Nàng Ban. — Là Ban-cơ làm Hán sử thế cho Ban-cố chết đi. — Tạ. — Tạ-đạo-huẩn, ngâm thơ giỏi.
  133. — Mặt mũi, hình dáng.
  134. Ngọc bội. — Đeo ngọc. — Kim môn. — Hàn lâm viện kim mã môn.
  135. Khuôn xanh. — Trời xanh.
  136. Giải cấu. — Gặp gỡ.
  137. Giải kiết — Giải hung cầu kiết. — Do tích thầy phù thủy.
  138. Trung khúc. — Việc kín trong lòng.
  139. Tàng tàng. — Xoàng xoàng.
  140. — Mặt trời lặn.
  141. Gương gối đầu nhành. — Mặt trăng gối trên nhành cây.
  142. Đảnh Hiệp. — Núi Hiệp-sơn. — Non thần. — Tam thần sơn — cảnh tiên.
  143. Tiên. — Tờ.
  144. Chữ đồng — Đồng tịch đồng sàng, đồng sanh, đồng tử.
  145. Chén hà. — (hà bôi) chén ngọc tử hà.
  146. — Tiệc rượu cầm uống chúc thọ.
  147. — Dải là — đồng tâm kiết. Hương tàn đèn lụn. — Đã khuya lắm.
  148. Cầu lam. — (Lam-kiều); tích Lam điền chưởng ngọc. Lư-sanh muốn con gái bà quán mà người ta không gả, biểu có một đấu ngọc đem đến thì mới được. Lư-sanh đi tới cầu Lam-kiều, gặp ông già cho ba cục đá dặn đem trồng nơi Lam-điền đủ một trăm ngày thì thành một đấu ngọc, làm thì quả có làm vậy, nên dùng tích ấy.
  149. Lần-khân. — Lầy-đây.
  150. Sàm-sở. — Lần-đâm, bốc-mạt.
  151. Chung-tử-kỳ là người lóng tai nghe ông Bá-nha đờn.
  152. Dây võ. — Dây dài. Dây văn. — Dây tiểu.
  153. — Ông Tư-mã-tương-như hay là Trường-khanh đờn khúc Phụng-cầu-hoàng: Trác-văn-quân nhỏ tuổi góa chồng đêm nghe liền leo vách thành qua; sau lấy nhau nên vợ nên chồng...........
  154. — Ông Kê-khang đờn bản Quảng-lăng hay lắm....
  155. Hành vân. — Bản đờn về việc đi dạo chơi.
  156. — Bản lúc bà Chiêu-quân ra Ngọc-môn-quan than thân mà đi cống hồ.
  157. — Ruột — (cửu phúc hồi trường).
  158. — Nhăn hài cái mày.
  159. — Ai oán, thảm thiết.
  160. Tẻ. — Buồn.
  161. Lả lơi. — Lả lúa.
  162. Giẽ. — (Hượm) — Khoan đã, thủng-thẳng.
  163. — Đào chi yêu-yêu. — Yểu-điệu như là đào.
  164. Bố kinh. — (Quần bố kinh xoa) — thật đạo vợ chồng.
  165. Trên bộc. — Bộc thượng (Sông bộc). Trong dâu. — Tang trung (bãi dâu). Dâu đọc giâu.
  166. Thôi. — Thôi-oanh-oanh (tên con gái). Trương — Trương-cung (tên con trai); hai đứa trai gái với nhau mà sau mẹ không gả, nên lấy nhau không đặng mà bỏ nhau.
  167. Rẻ rúng. — Dễ lắm.
  168. Bỉ-bàng. — Hổ-thẹn, xấu hổ.
  169. Gieo thoi. — Tích con gái kia quăng thoi gãy rang cái lão Tạ-côn là con trai đến chọc nó.
  170. Giữ giàng. — Giữ gìn.
  171. Đoan chánh. — Ngay thẳng.
  172. Bóng tàu. — Bóng mặt trăng.
  173. Ngân. — Sông ngân hà.
  174. Lữ thấn. — Quàn giữa đường, chết dọc đường
  175. Đề huề. — Đem về.
  176. Xuân đường. — Thường thường người ta hay nói Thung đường mà thật nó là Xuân.) Sơn trung hữu thọ bát thiên niên vi xuân, cố hiện phụ viết xuân.Sanh. — Học sanh.
  177. Gót đầu. — Đầu đuôi, gốc ngọn.
  178. Tang tóc. — Để tang, để chế (Có tang thì không nên chải gở làm tốt làm tẻ.)
  179. Ba đông. — Ba nam tam niên tang).
  180. — Xa xuôi.
  181. Giải.— Bày ra.
  182. Ông tơ. — Tích ông tơ bà nguyệt xe dây buộc nhơn duyên người-ta. Tên Vi-cố nhơn trời sáng trăng đi chơi trên núi, thấy ông già ngồi xe chỉ điều. Nó mới hỏi ổng làm làm chi vậy. Ông tiên rằng: Tao xe nhơn duyên vợ chồng người-ta hết thảy và tao biết trước ai lấy ai, sang hèn, khó giàu gì cũng biết, lại nói tiên tri rằng nó sau sẽ lấy vợ là con ăn mày ngoài chợ. Vi-cố về gặp con mẹ ăn mày bồng con gái nhỏ, thì muốn giết nó đi, mà nó bồng con chạy khỏi, phóng giáo theo nhằm con nhỏ có vít ra, rồi trốn đi mất. Anh ta học hành giỏi làm quan, sau cưới con quan kia về làm vợ, tưởng đã khỏi số lấy con ăn mày. Ai ngờ sau thấy vợ có vít thì hỏi phăn ra mới biết nó là con ăn mày, làm con nuôi ông quan gả cho mình, thì mới biết sự nhơn duyên có số tiền định.
  183. Chia phui. — Chia-chác, phân-rẽ nhau ra.
  184. — Chan phong túc võ. — Dầm sương dãi nắng.
  185. — Bão tì bà quá biệt thuyền. — Ôm đờn tì bà mà qua ghe khác.
  186. Vầng đông. — Mặt trời.
  187. Sẽ. — Xẽ, sớt.
  188. — Qua thu.
  189. Lầu trang. — Chỗ con gái ở; phòng con gái ở.
  190. Hàn huyên. — Lạnh ấm. — Hỏi thăm.
  191. Tả đề. — Hỏi han.
  192. — Bắt ngang một ông già, một người trai.
  193. Vô lại. — Không nhờ. — Oan.
  194. Ruồi xanh. — (Thương nhăng). Nha lại, lệ dịch.
  195. — Phá, soát, lục cả nhà cho đến không cửi, rổ may.
  196. Đồ tế nhuyễn. — Đồ kín, đồ nhỏ, đồ nữ trang.
  197. Sạch sành-sanh. — Sạch bách, ráo nạy.
  198. Bay-bốc. — Tai bay vạ gởi.
  199. Hạ từ — Bỏ nhỏ, hạ mình xuống mà xin..........
  200. — Nó không nghe, không vì, cứ phép khảo kẹp
  201. Sai nha. — Nhà tơ (Kẻ quan sai).
  202. Khốc hại. — Độc dữ.
  203. Quyền. — Đỡ.
  204. — Chỉ non chỉ nước mà thề. Lời thề.
  205. Hạ tình. — Để dẹp tình lại, mà lo hiếu.
  206. Qui liệu. — Tính toán.
  207. Ba xuân. — (tam sanh).
  208. Băng nhơn. — Kẻ làm mai, kẻ đem mối.
  209. Nhãn-nhụi. — Trơn-tru, trơn-lu.
  210. Bảnh-bao. — Tươi-tỉnh, tử-tế.
  211. Đắn đo. — Đon ren, so đo.
  212. Dặt-dìu. — Nói phải chẳng.
  213. Nạp thể vu qui. — Cưới rồi đưa dâu.
  214. Trao tơ. — Tích con gái Lý-lâm-phủ quan tể tướng đời nhà Đường, có nhiều con gái, mời các quan viên nhỏ trai tới rồi trong lầu có chỉ tơ đỏ thả ra từ mối ra cửa sổ, ông nào nắm nhằm chỉ đứa nào, lấy đứa nấy làm vợ.
  215. Gieo cầu. — (Tú cầu); tích con ông Lư-lân-vương là con gái tên Cẩm-bình-công-chúa kén chồng, may trái cầu thêu, ngồi trên lầu quăng xuống, ai bắt được thì là chồng. Khi ấy có hai anh em con chú con bát, là Tiết-giao, bắt được, Tiết-quì, lại giành sổ cái bao gấm hứt hai ra; nên Lư-lăng-vương gả con chị cho Tiết-giao, còn con em đưa cho Tiết-quì. — Rể xứng, rể kén được.
  216. Mảnh hồng nhan. — Thân phận con gái.
  217. Nàng Oanh. — Tích đời nhà Hán Văn-đế, nàng Đề-oanh là con Thuận-vu-khôn. Cha bị tội đáng phải hình, thì nàng Đề-oanh tới ngọ môn xin bán mình vào cung làm mọi mà chuộc cha cho khỏi hình. Vua cám lời Đề-oanh xuống chiếu bỏ nhục hình đời Tấn đi mà tha tội cho Vu-khôn.
  218. — Nàng Lý-cố-trinh-nương cha mắc tội oan, bán mình mà chuộc tội cha.
  219. — Huyên thảo vong ưu, cố dĩ huyên hô mẫu vi huyên đường — Hễ giắt cỏ huyên lên đầu thì quên hết lo, cho nên lấy đó mà chỉ là mẹ.
  220. Ngổn-ngang. — Dọc ngang.
  221. Trăng-già. — Nguyệt-lão, bà Nguyệt-lão.
  222. Tinh kỳ. — Kỳ hẹn đưa dâu.
  223. Khăn-khít. — Chặt-chịa.
  224. Trời Liêu. — Đất Liêu-dương.
  225. Khối-tình. — Nguyên tích thuở xưa có người con gái có tình tri giao với người học trò, bị đứa côn quan giết chết đi; linh nó chưa thỏa nên hóa ra người ta nhỏ nằm dưới lưng, đến khi quan lấy luật nghiệm, người, tinh nhơn tới ngó thấy mặt khóc lên một tiếng, khi ấy khối-linh mới tan đi.
  226. Tuyền đài. — Cửu tuyền. — Chín suối.
  227. Tương tư. — Nhớ nhau.
  228. Nhẽ. — Lẽ.
  229. Chín suối. — Cửu tuyền.
  230. Bồ liễu. — Phận con gái — Trước mai — vợ chồng.
  231. Bạc như vôi. — Trắng như vôi: Bạc quá.
  232. Nức-nỡ. — Tức-tối.
  233. Kim cải. — Kim rơi cải rụng. — Vợ chồng phân rẽ.
  234. Xương trắng — (Bạch cốt phao khí tha hương): chết bỏ xương đất người.
  235. Quản huyền. — Đờn địch, nhạc lời rước dâu.
  236. Trú phường. — Chỗ ở tạm.
  237. Hoài công — Tiếc công, uổng công.
  238. Người tình chung. — Kim-trọng.
  239. Trùng-phùng. — Gặp lại,
  240. Phong tình. — Trai gái.
  241. Nguyệt hoa. — Trai gái.
  242. Lầu xanh. — Lầu đĩ hay vẽ sắc xanh, nên kêu là Thanh lâu.
  243. Làng chơi. — Bợm chơi.
  244. Mướp đắn. — Khổ qua, đồ đắng ai thèm. Mạt cưa. — Đồ vô dụng
  245. Ngôi hàng. — Cửa hàng, cái hảng.
  246. — Nuôi đĩ, bán đĩ đã quen.
  247. Thuyền quyên. — Con gái tốt.
  248. — Mắc mớp.
  249. — Nước vỏ lựu sắc để mà rửa trong cửa mình cho sàn thịt. — Máu mồng gà, cắt ra bỏ vô lá hành mà chỉ còn con gái, còn nước đầu. — Đồ làm màu.
  250. Chiêu tập. — Nhóm lại, sàn da lại.
  251. Con đen. — (Lê dân) — người phàm phu.
  252. — Tiếc con gái tử-tế như hoa trà-mi bị đứa bậy là ong bướm tới nút nhụy.
  253. Tầm tã. — Lã-chã.
  254. Bời-bời. — Chan-chan: búi.
  255. Quyên sinh. — Liều sống.
  256. Hai tình. — Cha mẹ. Song thân.
  257. Giãn dần. — Bớt lần lần.
  258. Lầu mai. — Lầu quán.
  259. Lúc phân kỳ. — Chia đường. Kẻ ở người đi.
  260. Trường đình. — Trạm nghỉ.
  261. Tien hành. — Đưa đi. (Lễ đưa).
  262. Chén khuyên. — Một tuần uống là nhấm ba lần rót rượu đưa con.
  263. Thủi-thủi — Trụi trụi.
  264. — Chàng là cây tùng cao ngàn tầm, xin gởi gắm con ta hèn hạ như dây cát-đằng. (Dây cát căn, dây đằng bổn).
  265. — Chỉ mặt trời mặt trăng mà thề; lại thề quỉ thần giết đi.
  266. Gió hiệp — Gió núi Hiệp. Mây tần.— Mây non tần lãnh.
  267. Hồng trần.— Bụi đỏ.
  268. Đăm-đăm. — Thẳm-thẳm mù-mù. — Đâu-đâu
  269. Xa-xăm. — Xa-xuôi.
  270. — Lội giá đạp tuyết trắng phau phau. — Đi xa-xuôi.
  271. — Sương tuyết đầy đường đầy sá.
  272. — Mày ngài. — Mày như con nhộng mới hóa bướm. — Mày tầm, bọn đĩ đánh chang mày tóc con.
  273. Làng soi. — Người lịch-sự tử-tế.
  274. — Tổ đĩ; Thần đĩ — (Người ta hay vẽ có lông mày trắng.)
  275. Hàn thực. — (Ăn lạnh). Ngày mồng ba tháng ba, tiết thanh-minh.
  276. Nguyên tiêu.— Họi nguyên tiêu, rằm tháng giêng, ăn cỗ thắp đèn, vân vân........
  277. Nhục. — Mã nhục — Nệm. — Xách cái nệm trải mà khấn đem lên giường lót mà ngồi.
  278. Tiểu tinh. — Vợ bé.
  279. Tam bành. — Ba thần Bành. Sách dạy phép tu tiên nói trong mình người ta có ba họ Bành: Bành-cứ, Bành-chất, Bành-kiêu. Việc nó thì là xui-giục người ta làm tội đặng nó có đi cáo với Ngọc-hoàng...... — Tính hung, nết dữ.
  280. Bài-bây.— Lần-đân, lầy-đây; liều mạng.
  281. Bì tiên.— Roi da gióc.
  282. Nhân quả. — (Tiền nhơn hậu quả) = Tiền khiên đời trước để lại mình mắc.
  283. Liễu bồ. — Yếu đuối mềm mại như cây liễu cây bồ. — Phận con gái.
  284. Túc khiên. — Nghiệp cũ, tiền khiên.
  285. — Đóng cửa buồng cấm cung.
  286. — Ở trên lầu, ngó dấu non xa, nhắm trăng giọi vô cửa song.
  287. Dựa cửa hôm mai. — (Triêu mộ ỷ môn nhi vọng.) Nó nhắc về cha mẹ nó ngồi buồn nhớ trông, biết ai châu cấp dưỡng nuôi giúp đỡ.
  288. Bồng lai. — Cảnh tiên. Xa nhà đã lâu....
  289. Gốc tử. — Cây tử-lý, trồng ở nhà bây giờ có khi lớn bằng một ôm kia đặng.
  290. Chai chuốt. — Lịch sự tử tế, tốt trai.
  291. Thơ hương. — Con nhà học trò.
  292. Đeo đai. — Đèo bồng.
  293. Đã đày. — Rã rời.
  294. Đồng vọng. — Nghe vẳng vẳng; lóng tai mà nghe.
  295. Lời sắt đinh. — Lời nói chắc; chắc như đinh sắt đóng vào cây.
  296. Tế độ. — Chở bằng đò. — Cứu giúp.
  297. Mảnh tiên. — Tấm giấy.
  298. Mặt trời xế chiều.
  299. Tích việt. — Xẻ hai chữ ra mà cắt nghĩa là đến ngày hai mươi mốt, giờ tuất thì trốn.
  300. Tối rồi, chim bay về núi
  301. Trăng đà mọc, mà trăng ngày hai mươi mốt còn nữa cái.
  302. Cốt nhục tử sanh. — Sống gởi nạc, thác gởi xương.
  303. Kết cỏ ngậm vành. — Đời Chiến-quốc, con ông Ngụy-thù, nước Tấn, có người hầu còn trẻ, trước khi chết trối với con đầo lòng biểu khi chôn ong, thì đừng có chôn người hầo ổng đi, tội nghiệp.(Thuở ấy hay chôn sống người thương theo người chết). Khi hấp hối, ổng có nói với thằng con nhỏ thì phải chôn....mà sau nhờ người anh, giải nói khi ấy là lúc loạn mạng thì con hiếu thảo chẳng nên cứ ..... Hai anh em làm tướng nước Tấn, đánh với tướng Tần, cầm dùi sắt đánh gãy xe, sau về rầu, ngồi tinh mưu thế, nghe tiếng nói rằng: « Thanh thảo pha. » Kêu em dậy nói chuyện, bàn với nhau, sáng ra cỡi ngựa ra đi đánh, gặp nó, trá bại chạy xuống cái chòm cỏ tốt, tới đó ngó lại thấy quân Tần té lụi đụi thì trở lại đánh; tướng Tần xốc lại (bị cô hồn cha con hầu ông Ngụy-thù, cột tóm đầu cỏ lại mà trác giặc bị vấp té xuống), đâm được chết đi; ấy là tích Kết-cỏ.
    Đời nhà Thương vua Thái-mậu, người ta có dâng con chim Hoàng-tước, vua thấy nó sụ sụ, lại nghe tiếng con mái bay ngoài kêu thì thương mà thả đi. Đêm nằm ngủ thấy con chim ấy bay đến, ngậm ngọc nhả ra xin dâng ngọc đền ơn. Vua dậy quả thấy có cái Vành-ngọc để trong cái hộp; ấy là tích Ngậm-vành.
  304. — Khổ hải. — Tích Tinh-vệ công chúa nước Phiên, chồng bị chìm nơi bien Khổ-hải. Công chúa thù chồng bèn biến ra con Tinh-vệ, tha đá lấp cho cạn bien mà trả thù cho chồng.
  305. Truy phong. — Theo gió. — Ngựa hay quá.
  306. Kiện nhi. — Thằng nhỏ mạnh.
  307. Con tạo — (Tạo-hóa-nhi).— Trời, thợ trời. Ông hóa công.
  308. — Gió heo (may) lá rụng, ngó trên non thấy trăng mới ló mọc.
  309. Dậy dàn. — Om sòm, um cà tum.
  310. Hóa nhi. — Tạo hóa tiểu nhi. — Trời.
  311. Áp điệu. — Áp bắt dẩn về.
  312. Hưng hành. — Làm hung, hung hăng.
  313. — Nắm óc đánh vùi, không kể thân.
  314. — Bắt chum hum xuống, chà xát vập đầu chảy máu.
  315. — Phận tôi đày đọa, đánh mấy thì đánh, mà sợ rủi tôi chết đi, thì bà mất vốn đi còn gì.
  316. — Lươn đâu nệ lấm đầu.
  317. Đà đao. — Vớt trái.
  318. Cốt. — Bông chàng. — Đồng. — Đứa ngồi đồng. — Một bọn với nhau.
  319. Mặt mo. — Mặt dày, mày dạn.
  320. Giẩy. — Nó.
  321. Giếng thơi. — Thứ giếng đào nhỏ miệng mà sâu, là giếng thơi.
  322. Phong trần. — Gió bụi. — Nước cực khổ.
  323. Ru. — Sao
  324. — Vừa nhằm ngày rằm, sáng trang.
  325. — Việc đêm làm đĩ phải biết cách-thức, thế-thần, còn ban ngày thì ra vô, rước khách cho tử-tế cho người ta mê.
  326. Vành ngoài bảy chử — là thất tinh: tẻ vui theo buổi theo khi cho đủ thế. Vành trong tám nghề. — Chỉ cách khoái, cùng làm cho khoái trong nghề ấy.
  327. Nghe hạnh. — (Kể hạnh). — Kể chuyện vãn với trai. — Nết ngài. — Khi thì đánh chang mày tóc con...
  328. Châu nét nguyệt. — Châu mày, nhăn mặt. — Phai vẽ hồng. — Lợt má đào.
  329. Khắt khe. — Chua le.
  330. Cửa các phòng quê. — Nhà cửa mình xưa tử tế.
  331. — Vô lầu xanh (Nhà đĩ). — Nhập vô bọn đĩ.
  332. — Cho tiền trước ở chơi, chiếm lấy một nàng cho đủ một tháng.
  333. — Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong. — Ông Lý-mỗ có hai đứa con, một trai một gái, trước cửa có trồng cây ngô-đồng một bên giếng, chiều ra hứng gió, ông cha biểu một đứa ngâm một câu thơ. Thằng con trai ngâm không hay, đứa con gái ngâm câu trên nầy. Cha khen hay mà chê nó sau làm đĩ. — Cột tìm trâu; ra vô rước mối rước khách
  334. Tống-ngọc, — học trò đời Chiến-quốc nước Sở, lịch sự trai. — Truờng-khanh. — Tư-mả-tương-như, học trò đời Hán-vỏ-đế, cũng lịch sự trai.
  335. — Xưa sao kính-đáo phòng the, bây-giờ sao lại lạc-loài như hoa giữa đàng, đụng ai nấy ngửi.
  336. — Mùa nào qua mùa nấy cũng không đi đâu khỏi được, cứ nghề làm đĩ hoài.
  337. — Cũng có khi gảy cầm lúc sáng trăng, đánh cờ nơi vườn hoa nở.
  338. — Chín chữ trong câu thơ Lục-nga: Ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao....
  339. — Tan giu mộ cảnh. — Vì cha mẹ già yếu như bóng dâu đã tà.
  340. Sân hòe. — Tích ông Vương-đáng có trồng ba cây hòe trước sân, chỉ con sau cũng làm tam công. Nên đời sau lấy chữ hòe mà kêu sân hòe. — Đôi chút thơ ngây. — Là Vương-quang, với Túy-Vân còn thơ dại.
  341. Trân cam. — Miếng ngon, vật lạ.
  342. Liểu chương đài. — Cây liểu ở chổ tử-tế. — Nó nói lẽ nào Kim-trọng trở về cũng cứ đó mà hỏi thăm.
  343. — Không biết ở nhà em mình nó đã thế cho mình mà làm bạn với Kim-trọng hay chưa?
  344. Giấc hương quan. — Ngủ mà chiêm-bao thấy quê.
  345. Hôn hoàng. — Ngày lụn tháng qua, ngày nào tối ngày nấy, cũng là ở đất người, hết ngày tới đêm, hết tối tới sáng.
  346. — Ngày qua, đêm lụn...
  347. — Nhớ con Đạm-tiên.....
  348. Ngôi hàng. — Cái hảng buôn.
  349. Hoa khôi. — Đầu hoa. Lịch sự, xinh tốt nhứt.
  350. Thiếp hồng. — Viết thiệp giấy hồng đào.
  351. Hương quê. — Buồng thơm.
  352. Trướng Tô. — Trướng ông Tô-đông-pha, tuy già mà con gái còn muốn.
  353. Hải đường. — Bông hải đường đỏ thắm tốt.
  354. Thanh khí. — Tiếng hơi. — Đồng thinh tương ứng, đồng khí tương cầu.
  355. Giằng. — Giựt.
  356. Truy-hoan. — Nói sự vui cũ. — Nhắc việc vui thuở trước.
  357. Dan-díu — Bận bịu, dắc-díu, mặn-mòi.
  358. — Kêu là sóng khuinh thành, là sắc bất ba đào, quốc sắc khuinh nhơn thành; tích Tây-thi đưa cho Ngô-phù-ta, vua nước Ngô, mê nó bỏ việc nước, cứ ở lầu Cô-tô với nó, sau giết Tử-tư rồi, nước Việt qua đánh lấy nước.
  359. Bốc rời. — Bốc tiền rời mà thưởng. Tục ngoài Bắc thường con hát nhà trò thì thưởng tiền rời.
  360. Hơi đồng. — Tiền bạc.
  361. — Quyên là con quấc, —(Đỗ quyên, đỗ vũ, tử qui, vọng đế) — Con quấc kêu thì đã qua mùa thu.
  362. — Bỏ than hương xông, ngồi mà thêu.
  363. — Khen nó còn dầy-dầy tử-tế như còn con gái.
  364. Luật Đường. — Thơ thất ngôn; nhơn bày ra đời nhà Đường.
  365. Nối điêu. — Nối đuôi con điêu thử: nghĩa là hòa thơ lại.
  366. Thu ba. — Sóng nước mùa thu. — Nước mắt.
  367. Chu xuân. — Vợ chu quỉ, vợ lớn.
  368. — Phải truy nguyên cho biết đầu đuôi gốc tích.
  369. Thú. — Thúc-sanh thú: Cưới. — Tùng — Tùng lương, là Túy-kiều chịu theo về, lấy Thúc-sanh làm chồng.
  370. — Ở làm đĩ bấy lâu, cho áng nguyệt hoa...
  371. Thềm quế cung trăng. — Trong đã có vợ chính hẳn-hòi.
  372. — Trong nhà đã có vợ chánh cai quản như gã Hang-nga ở trong mặt trăng.
  373. Khăn-khít. — Chặt-chịa — Dải-đồng. — Đồng tâm kiết, cái dây thề nguyền với nhau.
  374. Tay co: (thúc thủ) — Là cái then ngang thùng gánh nước, hay là cong ghe: Chắc, mạnh; quyền thế. Lại cái cây người ta dùng gióng kí mà khiêng, tới chỗ đổ, buông nó ra thì đổ trụm xuống, cũng kêu là cái tay co.
  375. Hàm sư tử — (Chữ kêu vợ hay ghen hay rầy là con sư tử xứ Hà-đông) — Đằng la. — Dây leo, chỉ yếu đuối, ít quờn ít thế, như cái dây một mình, như không có cây mà dựa, thì không sống được.
  376. — Tại nhơn oái thiềm hạ, thùy cảm bất đê đầu? — Dưới nhà thấp, người ai dám chẳng cúi đầu?
  377. — Giấu mùi. — Giấu màu, giấu mẹo.
  378. — Hễ làm đĩ thì lại về làm đĩ
  379. — Phận tôi thì chẳng nói gì, một đều nghĩ cái danh chàng mà thôi, sợ chàng hư danh mất tiếng với người ta.
  380. Ngô Lào. — Bên Ngô bên Lào.
  381. — Trăng lặn.
  382. Trúc viện thừa lương. — Ra nhà có đám trúc mà hứng mát.
  383. Thầy thợ. — Người làm đơn trạng.
  384. Dò la. — Mai mối, tới đọ tình hình.
  385. Tòng lương. — Làm đơn tới thưa quan xin ra lấy chồng.
  386. — Ngô đồng úa la nảy chồi thì là qua đông.
  387. — Rốt thu thì mận nảy chồi sương.
  388. Xe bồ — (An xa bồ luân). — Xe dưới bánh có vấn cỏ bồ cho êm, là xe cha Thúc-sanh (là Thúc-chánh) về thăm quê lại trở qua hảng.
  389. E-ấp. — Sợ-sệt.
  390. Tri-tri. — Nằng-nằng, tráy-tráy.
  391. Con đen. — Đứa khờ dại.
  392. — Đóng xà ngốc Túy-kiều lại. — Cổ mang tròng, tay lại đúc vào trong ấy nữa.
  393. — Ngồi dưới đất, dưới cát, lại bị giàng nọc.
  394. Mình. — Nó, người ta, phải mình nghe lời người ta....
  395. Cầu thân. — Ngày đi cưới nó.
  396. — Tuy nó là đĩ-thỏa mặc lòng, nó cũng biết đều hơn thiệt.
  397. — Gông cây xà ngốc. — Ông phủ lấy chữ Mộc-già làm đề mà ra cho nó làm thơ.
  398. Tiên hoa. — Giấy bóng.
  399. Thịnh Đường. — Văn lúc nhà Đường còn đang thạnh.
  400. Tài-tử giai nhân. — Kẻ học trò hay, con gái lịch sự.
  401. Châu Trần. — Họ Châu với họ Trần.
  402. — Nó đang tử-tế với nhau, mà làm cho nó chi ly ra thì cũng như dây đờn đang trúng bực mà mình vặn nó sái đi.
  403. — Đã qua lúc Đào chi yêu yêu, tới mùa thưởng lục hà trì. — Qua hạ.
  404. Bồ. — Cây xương bồ. — Bồ liễu. — Phận con gái.
  405. Cát lụy. — Dây cát leo. — Phận vợ bé.
  406. Tào khang. — Tấm mẳn. — Đạo vợ chồng. — Phận vơ chính.
  407. Tiêu-hao. — Tin-tức.
  408. Hồi trang. — Sắm sửa đi về.
  409. Ninh gia. — Thăm nhà.
  410. — Sắm tiệc tiễn-hành mà đưa kẻ trèo non lặn suối, đi đường xa-xuôi.
  411. Xuân đình. — Từ giả cha rồi, lại ra trường đình mà đưa nhau.
  412. Cao đình. — Chỗ trường đình nơi đưa đón nhau.
  413. Bưng mắt bắt chim. — Thoa tròng đen người ta.
  414. Đèo bòng. — Vá múc thêm. (Thêm trái bòng nữa).
  415. Chia bâu: (Biệt mị). — Phân rẽ nhau ra.
  416. — Lá cây phong đã nhuốm màu úa, chỉ qua thu kiểng.
  417. Chinh an. — Bụi hồng đã bay lấm cái yên ngựa kẻ đi đường.
  418. — Hay xoi-xỉa, hay ghen tương lắm.
  419. — Cái máu ghen càng nín càng hung.
  420. Trăng hoa.— Nguyệt hoa — Ngoại tình, trai gái.
  421. Trẻ ranh.— Con nít, còn trẻ.
  422. — Thấy ván mới muốn mua, không tiền trả phải bán ghe đi mà trả.
  423. Tẩy trần. — Tiệc rửa bụi.— Tiệc mầng.
  424. — Nghĩ trong mình việc đã kín đáo như bỏ trong bình đậy nút lại.
  425. — Ngô đồng nảy mụt chỉ đã qua đầu thu.
  426. Quan tái. — Cửa ải.
  427. Mây bạc. — Cách mặt cha mình là ông Thúc-chánh.
  428. Thần hôn. — (Thần tỉnh hôn định). — Sớm viếng tối thăm, sửa-sang cho cha.
  429. — Nhằm mùa thu.
  430. Qui ninh. — Con gái về thăm mẹ.
  431. Phu-nhân. — Vợ quan nhứt phẩm, nhì phẩm thì kêu là phu nhơn.
  432. Côn-quang. — Quân hoang-đàng.
  433. — Từ Thúc-Sanh đi về thăm nhà, Túy-kiều ở lại một mình chèo-queo.
  434. — Gần hết mùa thu.
  435. — Tóc cắt mà thề với Thúc-sanh đã ra xuống chấm vai.
  436. Cung quảng. — Quảng hào cung. — Trên mặt trăng.
  437. Ả Hằng-nga. — Là vợ Hậu-nhgệ, ăn cắp thuốc tràng sanh của Hậu-nghệ nấu, nên sợ chồng đánh liền bay lên nguyệt cung mà ở.
  438. — Tam tinh tại thiên. (Sách Thi-kinh).
  439. — Xô, bồng, rinh.
  440. Đánh lận sòng. — Đánh lận, gạt.
  441. Pha càn. — Chạy bậy.
  442. Hớt-hơ hớt-hải. — Sớng-sác sớng-sưởi.
  443. Di hài nhặt gói. — Lượm-lặt mà gói cái xương còn lại đó....
  444. Khâm liệm. — Đồ êm mà liệm xác. (Đại khâm, tiểu khâm; đại liệm, tiểu liệm).
  445. Tang trai. — Để tang, làm chay.
  446. Lục trình. — Đi bộ.
  447. Vĩnh quyết. — Trối-dài.
  448. Phi phù trí quỉ. — Trổi bùa đánh đồng thiếp.
  449. Thông huyền. — Thông tới huyền đô. (Dưới âm phủ).
  450. Tam bửu. — Chỗ Phật. — Cửu-tuyền là dưới Diêm-la
  451. Đạo-nhơn. — Lão thầy phù thủy.
  452. Tỉnh đàn. — Bàn thờ.
  453. Oan-gia. — Sự khốn nạn cực khổ.
  454. Mạng cung. — Mười hai cung mạng người ta.
  455. Chìn chìn. — Chằng chằng.
  456. Quàng-xuyên. — Đánh đồng thiếp, lên cốt bong chàng là đều bậy-bạ bá-láp bá-lếu.
  457. Thính đường. — Nhà khách quan.
  458. Môn phòng. — Nhà dưới, chỗ sau bếp núc.
  459. Huỳnh-lương. — Chín nồi cháo kê mới tỉnh hồn lại.— Là có tích Tô-đỉnh chiêm bao. Tô-đỉnh tính đi thi, ra quán xin thầy coi tướng coi thử sẽ đậu hay là không. Ông thầy nói đi thì không có đậu được đâu mà đi, đừng đi thì hay hơn. Tô-đỉnh mắng trở lại, không chịu. Sao vùng buồn ngủ, ông thầy cho mượn cái gối nằm xiểu đó mà ngủ; liền nằm chiêm bao thấy đi thi đỗ làm quan lớn cho đến chức tể tướng, sau bị còng tội vua quở xin về hưu trí, vua giận cách đi hết, lại giam tại nơi trấn phủ, ở trỏng, khi bà con vô tham, rầu khóc òa lên, mở mắt ra mới biết là chiêm bao. Nội cuộc làm quan đó đã hơn hai mươi năm. Trước khi ngủ thấy vò chõ kê, thức dậy thì kê đã chín. Ấy là tích huỳnh-lương.
  460. A-huờn. — Đầy tớ gái nhà quan.
  461. Giường thất-bửu. — Giường cẩn ngọc báu quí.
  462. Mèo mả. — Mèo hoang. —Gà đồng. — Con ếch. (Điền kê.)
  463. Khủng-khỉnh. — Hủng-hỉnh.
  464. Gia pháp. — Roi.
  465. Trước côn. — Roi tre.
  466. Đào lý. — Cây đào, cây lý. — Thân phận con gái yếu đuối, bị đòn tơ-tải như cây đào cây lý bị dông mưa xơ-xải.
  467. Thị-tì. — Đầy tớ gái hầu.
  468. Thanh y. — Đầy tớ mặc áo xanh.
  469. Lời phương tiện. — Lời an ũi, nói hơn thiệt cho mà giải sầu.
  470. Mở đàng hiếu sanh. — Kẻo mà chết đi uổng mang.
  471. Rưng. — Nhưng.
  472. Tai vách, mạch rừng — Ở đây rừng có mạch, vách có tai.
  473. Đổ ngọc. — Đổ nước mắt.
  474. Lầm than. (Đồ thán) — Cực khổ.
  475. Túc trái tiền oan. — Nợ cũ, oan trước
  476. Êm ả. — Êm ái, im mát.
  477. Nhắc dây. — Lên dây lấy bực đờn.
  478. Oan bay. — Chim oan ương, chỉ vợ chồng không rời nhau, nên Túy-kiều lấy đó mà nói mình với Thúc-sanh là như cặp chim oan ương mà chúng bat đi, nên phân rẽ ra vợ chồng cách nhau.
  479. — Chang mày khi trước hay trau-tria cạo-gọt mà bây-giờ không có gọt nữa, nên nó mọc lân ra như trăng non đầu tháng.
  480. Sen tàn. — Hết hạ. — Chiếng hoa. — Qua thu, mai, trái mơ (ô môi) tro bông.
  481. Gỉa-giề. — Chào hỏi vui mầng.
  482. Nham-hiểm. — Độc địa.
  483. Động dong. — Thương khó, buồn bực.
  484. Trắc tị. — Lên núi Tị mà trông mây trắng. (Mẹ).
  485. Chung thiên. — Cả đời, trọn đời
  486. Tẩy trần. — Rửa bụi. (Tiệc mầng kẻ mới về).
  487. Tạc thù — Mời luân phiên nhau.
  488. Huề hồ. — Cầm ve (mà rót).
  489. — La nạt con Hoa-nô (là Túy-kiều). Tên Hoa-nô là tên bà mẹ con Hoạn-thơ mới đặt sau.
  490. Bòn-hòn. — Trái bòn-hòn. — Đắng lắm.
  491. Khúc rồng. (Đồng long). — Đồng hồ nước làm hình con rồng phun nước từ bận mà chỉ giờ.
  492. Túy. — Con chim sả. — Uyên. — Oan. — Oan-ương.
  493. Phô sòng. — Trình tay.
  494. — Tích Hán-vỏ-đế yêu sắc Đậu-a-kiều, nên khi đưa vô làm hoàng hậu, thì làm nhà vàng cho hoàng hậu ở, y như lời ông vua đã nói với cô, khi bả hỏi: Nhĩ ái A-kiều phủ? Thì vua rằng: Nhĩ đắc A-kiều đương dĩ kim ốc trữ chi....
  495. — Ở đó có cây, có hoa, có cỏ, có hồ, có non bộ, kiểng vật đủ.
  496. Tam qui. — Là: qui y Phật, qui y pháp, qui y Tăng.
  497. Ngũ giái. — Sát sanh, ẩm tửu, tà dâm, gian đạo, khi trá.
  498. — Khi trước làm đầy tớ thì mặc áo xanh, bây giờ mặc áo ca sa là áo sãi vãi hay may nhiều miếng nhập lại.
  499. — Cấp cho hai đứa phục dich, con Xuân-hoa, con Thu-nguyệt.
  500. Thủ tự. — Chép kinh. — Nồi tâm hương. — Nhang đèn.
  501. Nhành dương. — Dương chi sái thủy. — Nước cam lồ, nước phép của bà Quan-âm.
  502. Nâu sồng. — Màu nu xuống sắc sồng. — Màu thuyền. — Màu về chùa chuyền.
  503. — Đã qua hai tháng, cửa đóng chắt, lưới dày: cấm cung ở tại chùa.
  504. — Tuy ở nơi Quan-âm các, là gần, mà cách xa nhau không tới lui với nhau được, như đường xa quan sơn vậy.
  505. Tầm-ta. — Dầm dề.
  506. Chủ đông. — Phận đờn ông
  507. Tông đường. — Cha.
  508. — Ra như đã để nhau rồi, để nhau thì bẻ đồng tiền ra hai, chẻ chiếc đũa ra làm hai.
  509. Chiếc bá sóng đào. — Cái thuyền tình là phận con gái bị sóng gió.
  510. Quằn-quại. — Oằn-oại.
  511. Nham-hiểm. — Triềng núi hẳm. — Sâu-hiểm.
  512. Hoa-tì hay là huê-tì. — Đầy tớ gái.
  513. Lan-dinh. — Lan đinh bút thiếp. — Chỗ chơi các người hay chữ tử-tế hội lại với nhau.
  514. Thuyền trà. — Chén trà cho dĩa dài làm cong cong, con Túy-kiều pha trà hồng mai mà đãi
  515. Thơ trai. — Thơ phòng.
  516. E-lệ. — sợ-sệt.
  517. Rởn gai. — Dởn ốc, mọc gai.
  518. Sâu-sắc. — Độc-hiểm.
  519. — Trèo vách tường mà ra.
  520. — Chơn đạp tuyết đi thầm ban đêm...
  521. Trụ-trì. — Ông từ.
  522. — Bà Giác-duyên hỏi gặn đầu đuôi gốc ngọn cho tường.
  523. Pháp bửu. — Kinh ngân, chuông vàng, khánh bạc.
  524. Diện hiến. — Lời thầy tôi dạy...
  525. Hàng-thủy. — Tên chùa Hàng-thủy.
  526. Hiền đồ. — Vãi em....
  527. — Đêm thắp đèn thắp nhang, dộng chuông.
  528. Vẻ ngân. — Sông ngân-hà,
  529. Đàn việt. — Kẻ hay cúng chùa.
  530. — Để nước đến trôn mới nhảy sao cho kịp?
  531. — Mua trâu vẻ bóng, chắc-chắn vào đâu?
  532. Tâm minh. — Thề.
  533. Linh-đình. — Rộn-ràng.
  534. Trác. — Ghế nghỉ (đẳng).
  535. Hàng viện. — Lầu xanh, nhà trữ đĩ.
  536. — Lấy bạc rồi, cái bọn bạc tình kiếm đường xẹo đi mất.
  537. Nhẽ. — Lẽ.
  538. Hồng quân. — Khuôn lớn. — Trời.
  539. Hồng quần. — Con gái. (Bỡi hay mặc quần đỏ.)
  540. Đường đường. — Chẳm-hẳm.
  541. Côn quyền. — Cầm roi đánh quờn. — Nghề vỏ.
  542. Ba lược. — Là tướng lược, trận lược, chiến lược. — Sáu thao là: Long thao, hỗ thao, báo thao, vân thao, phong thao, lôi thao.
  543. — Tay cầm gươm. — Trên bộ việc vỏ cũng tài; việc thủy cũng là tài tình lắm, như một mình cầm lái hết thảy.
  544. Lét. — Liếc.
  545. Tâm phủ tương cờ. — Tâm đảm tương kì. — Lấy lòng da mà ở với nhau.
  546. Vật-vờ. — Vất-vơ.
  547. Mắt xanh... — Thanh nhãn tương khán. — Tích ông Nguyễn-Tịch là bọn Thất-hiền, gặp người phàm-phu tục-tử thì ổng ngó mà con mắt ổng trắng; gặp người chữ-nghĩa văn-chương tử-tế, thì ổng ngó mà con mắt ổng xanh.
  548. Bỏ. — Sá chi.
  549. Bình-nguyên-quân — là ông Triệu-thắng đời Chiến-quốc, người hay hiếu khách, rước đãi người ta, khách cho đi giày cẫn ngọc là khách trượng, số 3000 người.
  550. Tấn-dương. — Tích ông Đường-cao-tổ làm lưu thủ Tấn-dương thành, đánh Vũ-van hóa-cập được, lấy thiên hạ làm vua nên trong sử biên: Long phi Tấn-dương.
  551. 1 Chung = 4 Thạch. — 1 Thạch = 4 hộc. — 1 hộc = 2 vuông (lúa). — 1 Tứ = 4 con ngựa. — Sang giàu muôn hộ.
  552. Thất-bảo. — Thất bữu. — Giường cẩn ngọc.
  553. — Màn thêu bát tiên.
  554. — Đã biết lòng biết dạ nhau.
  555. Tiếng bề. — Trống quân.
  556. Sinh. — (Sanh ki.) — Bóng cờ xí.
  557. Túy-kiều le ra một mình ở nhà.
  558. Đãng-đãng. — Dài lam.
  559. Tư phần. — Cây tử, cây phần: nó nhớ đến quê quán cha mẹ.
  560. Hồn quê. — Hồn nhớ quê
  561. Cánh-hồng. — Về Từ-Hải dức ra đi như chim hồng hộc.
  562. Đăm-đăm. — Mù mù.
  563. Dông quanh. — Xung quanh.
  564. Tiếng la. — Tiếng thanh la.
  565. Đồng thanh. — Rập một tiếng.
  566. Chầu. — (Đức chầu.) — Tiếng kêu vợ quan lớn.
  567. — Tán thêu phụng, với song loan.
  568. Hoa-quang. — Mão Từ-Hải gởi về.
  569. Hà-y. — Áo sắc ráng trời Từ-Hải gởi về.
  570. Hỏa-bài. — Tin báo trước, và có cầm bản hồi tị túc tịnh.
  571. Khao binh. — Đãi binh.
  572. Ruổi sao. — Chạy lẹ như sao vượt.
  573. Ba quân — (Tiểu quốc tam quân). — Một quân = hai mươi vệ. — Một vệ = năm trăm binh — Ba muôn binh.
  574. Lịnh tiển. — Cờ lịnh tiển.
  575. Thệ-sư. — Thề với quân.
  576. Thị lập. — Đứng hầu.
  577. Song phi. — Đứng mở cánh đều vây ở ngoài.
  578. Vác đồng. — Khí giái.
  579. Sanh kỳ. — Cờ xí.
  580. Tiên nghiêm. — Đánh ba hồi trống tiên nghiêm.
  581. Chàm đổ. — Xanh mặt tái-lét đi. — Cầy run. — Run-rẩy như cầy sấy. — (Chó sưởi lữa).
  582. Sâm thương. — (Sao sâm, sao thương. — Sao hôm, sao mai). — Duyên vợ chồng không hiệp với nhau, như sao hôm với sao mai.
  583. — Bà già bắt được kẻ cắp = Thì là chắc cứng đi rồi.
  584. — Kiến bò miệng chén được bao lâu.
  585. Mụ già là bà Quản-gia. — Sư-trưởng là bà Giác-duyên.
  586. Hiến phù. — Đem tội nhơn vô.
  587. Nội-đao. — Quân tả đao.
  588. Chẳng bỏ. — Bỏ ghét.
  589. — Một ngàn năm mới gặp một lần, mà lật-đật vội-vã gì, ở lại chơi đã.
  590. Hạc nội. — Như hạc ngoài đồng, như mây trên núi biết đâu mà tìm.
  591. Hành ước. — Đi phổ khuyến. (Về thầy chùa thầy sãi.
  592. — Cây bà hỏi cho rỏ trọn cái đời tôi làm sao?
  593. — Đã phỉ lòng đền ơn trả oán.
  594. — Gan ốc bao nhiêu mà đền nghì trời mây cho được.
  595. — Ân oán báo đền rồi mở tiệc đãi các tướng, với quân binh.
  596. Trước chẻ đá tan. — (Phá trước thạch lạn). — Đến đâu thắng đó, đánh đâu được đó.
  597. Loài giá áo túi cơm. — (Nang bao phạn nang). Người hèn hạ không tài không trí gì.
  598. Cô quả. — (Xưng cô đạo quả). Là tiếng quan lớn với vua nói về mình. Muốn làm thế gì, muốn dụng chức gì cũng được.
  599. — Tiện nghi hành sự, sau bát, tiễn bộ. — Quyền ông Hồ-tông-Hiến.
  600. Đỗng nhung. — Đem binh đi
  601. Hồ-đồ. — Còn nghi ngại.
  602. Gian-chuân. — Quẻ khốn.— Khốn khó, cực khổ.
  603. — Mình đã về với Triều-đình thì cũng danh-giá tử-tế, vinh vang.
  604. — Nhơn đức vua còn dồi-dào, đang thạnh lắm.
  605. Bình-thành. — Kể từ Minh-thái-tổ khai sáng.
  606. — Làm cớ cho người ta chết, không biết tông tích nó ở đâu.
  607. Hoàng-sào. — Người làm loạn mất nhà Đường gây ra đời Ngũ-quỉ.
  608. Thúc giáp. — Bó giáo mà đầu.
  609. Thành hạ yếu minh. — Lời thề với nhau dưới thành.
  610. Ngơ-ngác. — Ngã ngang ngã ngữa. — Sải-trường. — Trống canh đánh sơ-sài.
  611. Quân sư. — Dáng binh vua.
  612. — Tiền sứ, hậu binh.
  613. — Mặc áo, đội mũ ra rước.
  614. Ám hiệu. — Hô-công ra hiệu lệnh thầm cho quân đánh.
  615. — Mạnh hổ nan địch quần hồ.
  616. — Chết đi rồi.
  617. Nhơn nhơn....— Chết đứng sựng đi đó, ai thấy cũng kinh.
  618. Oan khí tương triền. — Khí oan nó buộc lấy nhau.
  619. Binh-cách. — Lúc loạn-ly, giặc-giả.
  620. Thành toán miễu đường. — Cái chước đã nên vì phước đức vua ....
  621. Phu quí thê vinh. — Chồng sang thì vợ cũng sang.
  622. — Xin cho đất mà chôn, phu-phỉ tình ngãi với nhau.
  623. Kiểu táng di hình. — Đem chôn sơ sài đi cho rồi.
  624. Phổ vào. — Sắp vô.
  625. Hồ-công say xoàng xoàng, nói với Túy-kiều rằng: Bây-giờ chồng chết rồi, để cho tao làm chồng thế cho.
  626. Tiểu-lân. — Tiểu-liên, tên người đờn nam hay.
  627. Tảo-nha. — Buổi hầu mai.
  628. Đà-đoan. — Cắc-cớ.
  629. — Mặt trời chen lặn.
  630. Triều. — Thủy triều. — Nước lớn.
  631. Bức tiên hoa. — Giấy để sẵn mà viết.
  632. — Làm thơ bốn câu để lại.
  633. Bao-la. — Bủa vây. — Mênh-mông.
  634. Lưu ly. — Trói lìa.
  635. Dương cực âm hồi. — Hết dương rồi thì âm trở về.
  636. Vân du. — Chơi mây. — Đi tu.
  637. — Tình ái là như dây oan nó ràng buộc lấy mình.
  638. — Bị làm đĩ hai lần, một lần tại Tú-bà, một lần tại nhà Bạc-hạnh — Bị làm đầy tớ hai lần. (Làm con đòi thì phải mặc áo xanh, nên kêu là thanh-y): Một lần tại nhà bà Phu-nhơn là mẹ Hoạn-thơ, một lần nữa tại nhà con Hoạn-thơ.
  639. — Mang đều tình ái thì có, mà cái bụng tà-dâm thì không.
  640. Vi lau. — Xuồng nhỏ nhỏ.
  641. Thảo-đường. — Nhà tranh.
  642. — Một ngọn sông Tiền-đường nước xanh lẻo-lẻo, mà bóng mây thì vàng nửa che sông nửa che chùa.......
  643. Chuyển-vần. — Mây trời.
  644. Trên mai. — Trên mui.
  645. Dương-công. — Thợ trời. — Trời.
  646. Thảo lư. — Lều tranh.
  647. — Đắp đổi tháng ngày, như nước lớn ròng. — Ngày nầy qua ngày kia, ở nơi chùa thanh-vắng quạnh-quẽ, lại gần sông, gần bến nước.
  648. Trì tang. — Đi đem quan tài chú về, chịu tang.
  649. Sa-sút. — Sa cơ phải kém sút thuở xưa. — Sa nghèo-nàn
  650. — Vườn-tược xơ-rơ, nhà cửa xích-xác, cửa gài bằng tre.
  651. Dạ đài. — Mả.
  652. Rầu như dưa. — Rầu rỉ xáu đi, như dưa cải bóp muối thì nó xáu đi vậy.
  653. — Dở xuyến vàng ra là của cấm Kim-trọng đưa cho Túy-kiều, ông bà còn giữ đó.
  654. — Phím đờn với miếng hương của Túy-kiều đưa cho Kim-trọng.
  655. Thần hôn. — (Hôn định thần tỉnh). Kim-trọng rước cha mẹ vợ về nuôi-nấng xem-sóc đêm ngày.
  656. Châu triền. — Xây quanh mà lo-lắng cho.
  657. Kim-mã. — (Kim mã môn) — Cữa Hàn-lâm.
  658. Ngọc-đàng. — Hàn lâm viện. — Đậu tấn-sĩ.
  659. Cầm đường. — Huyện đường. Vì tích ông Triệu-biện đi có cây đờn với con hạc nên kêu chỗ huyện đường là cầm đường
  660. Kiên trinh. — Bền chính — Nói Túy-kiều là người trinh tiết vững lòng......
  661. — Liều mình cắt họng mà chết... rồi lại mắc lừa làm vậy
  662. Tá. — Tiếng để mà hổi.
  663. Vân-mồng. — Nông-nỗi.
  664. Đỉnh chung. — (Vạc chung). — Giàu sang phú túc.
  665. Nấn-ná. — Lần-hồi.
  666. Chiếu trời. — (Thiên tử chiếu). — Chiếu vua sai.
  667. Phó quan. — Đáo nhậm. — Đi nhậm sở.
  668. — Thâu linh. — Chết.
  669. Thổ-tù. — Quan thổ.
  670. — Làm đàng thủy lục (việc vướt) cho Túy-kiều, vì nghe nói đã gieo mình xuống đó mà chết.
  671. — Nước lớn sóng bổ ầm ầm.
  672. Tinh-vệ. — Chim tinh-vệ, hình công chúa biến ra mà tha lấp biển mà kiếm xác chồng.
  673. Nhân quả. — Nhân duyên, quả báo.
  674. Đăm-đăm. — Ngằm-ngằm, ngậm-nguồi.
  675. Giang tân. — Bực sông.
  676. Quyển bào. — Bâu áo.
  677. Độ sanh. — Vướt cho sống, khỏi chết.
  678. Đoàn viên. — Sum hiệp.
  679. — Phá kính trùng viên, tích Ngạc-xương công-chúa với ngươi Thúc-đại, trước có nguyền với nhau bẻ tấm kính ra; sau dâu lại in nhau, lại cho đoàn viên với nhau......
  680. Khuôn linh. — Trời.
  681. — Biểu hữu mai kì thật thất hề, cầu ngã thứ sĩ, đãi kì cát hề, kì thật tam hề, cầu ngã thứ sĩ, đãi kì câm hề (Kinh thi). — Khi mai có trái, nhánh thì ba, nhánh thì bảy, chỉ con gái mở quá tuổi lấy chồng, nên hãy còn duyên, phải lấy chồng. Khi ấy Túy-kiều ba mươi tuổi.
  682. — Tinh di vật hoán.
  683. Nhị. — Nhụy.
  684. Trần cấu. — Bụi nhơ.
  685. Bố kinh. — Quần bố kinh xoa.— Nghĩa vợ chồng.
  686. Cầm sắt. — Đờn cầm đờn sắt. — Vợ chồng. (Cổ sắt cổ cầm, hòa lạc khả dâm).
  687. Cầm cờ. — Cầm kì. — Hòa đờn, đánh cờ. — Bạn chơi.
  688. Chàng Tiêu. — Tiêu-sử, chồng công chúa Lộng-ngọc là con gái Tần-mục-công, ở trên lầu hay thổi cái tiêu, Tiêu-sử là tiên, nghe, ở trên trời bay xuống hóa cây tiêu thành vợ chồng với nhau; đến sau cả hai lấy phép tiên bay biến đi mất.
  689. Giao bái. — Lạy lộn nhau.
  690. — Dắc nhau lại, giao bói hiệp cẩn.
  691. Mảy-may. — Chút đỉnh.
  692. Âu-yếm. — Ấp-yêu, triều-mến.
  693. Khoi. — Lòng.
  694. — Tích ông Trang-sanh. (Trang-châu mộng thân hóa vi hồ điệp tình viết, bất tri Trang-châu hóa hồ điệp da, hồ điệp hóa Trang-châu da?) Ổng chiêm-bao thấy mình hóa ra con bướm-bướm, đến khi thức-dậy mới nói rằng: phải là tôi hóa ra con bướm-bướm hay là con bướm-bướm hóa ra tôi chăng, không biết chắc.
  695. — Tích Thục-vọng-đế, nhường nước cho anh tướng tên là Tử-chi, sau nó làm ngặt phát lương cho mà ăn, tất-tưởi, mới tiếc mà hóa ra con quốc.....
  696. — Kẻ đa tình
  697. Hái thuốc. — (Nhập sơn thể dược). Tiếng nói về thầy chùa đi khỏi thì kêu là đi lên non hái thuốc.
  698. — Đẻ được nhiều con trai.