Bước tới nội dung

Việt Nam sử lược/Quyển II/1928/Quyển IV/Chương I

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

越 南 史 略

VIỆT-NAM SỬ-LƯỢC

Quyển IV


NAM BẮC PHÂN TRANH THỜI-ĐẠI
南 北 分 爭 時 代
(1528–1802)


NHÀ HẬU-LÊ
後 黎
Thời kỳ phân tranh
(1533–1788)


CHƯƠNG I


LỊCH TRIỀU LƯỢC KỶ

1. Nam triều Bắc triều. — 2. Trịnh Nguyễn phân tranh


Nước Nam ta từ khi Ngô-vương Quyền đánh đuổi được quân Nam-Hán, vua Đinh Tiên-hoàng dẹp yên được loạn Thập-nhị Sứ-quân lập thành một nước tự-chủ, đời nọ qua đời kia kế truyền được non 600 năm. Đến đầu thập-lục thế-kỷ, bởi vì vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc chính trị đổ nát, cho nên trong nước loạn lạc, nhà Mạc nhân dịp mà làm sự thoán-đoạt. Nhà Lê tuy đã mất ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công đức của vua Thái-tổ và vua Thánh-tôn, cho nên lại theo phò con cháu nhà Lê trung-hưng lên ở phía nam, lập ra một Triều-đình riêng ở vùng Thanh-hóa Nghệ-an, để chống nhau với nhà Mạc. Ấy là thành ra Nam-triều và Bắc-triều, hai bên đánh nhau trong năm sáu mươi năm trời.

Đến khi nhà Lê nhờ có họ Trịnh giúp rập, dứt được nhà Mạc, tưởng là giang sơn lại nhất thống như cũ, ai ngờ họ Trịnh và họ Nguyễn lại sinh ra lòng ghen ghét, gây nên mối thù oán, rồ mỗi họ hùng-cứ một phương, chia nước ra làm hai mảnh: họ Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh giữ xứ Bắc, mỗi họ chiếm giữ một xứ để làm cơ-nghiệp riêng của mình. Từ đó giang sơn chia dẽ, Nam Bắc phân tranh, ấy là một thời đại riêng trong lịch sử nước ta vậy.

Nhà Hậu-Lê 後 黎 từ khi trung-hưng lên, con cháu vẫn giữ ngôi làm vua, nhưng quyền chính-trị ở cả họ Trịnh 鄭. Còn ở phía nam thì từ sông Linh-giang trở vào là cơ-nghiệp của họ Nguyễn 阮. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn-phù nhà Lê. Sau này ta hãy chép tóm cả các đời vua và các đời chúa để cho rõ sự kế truyền. Còn những công việc về thời bấy giờ thì ta sẽ bàn riêng ra từng mục cho rõ ràng.


I. — NAM-TRIỀU 南 朝, BẮC-TRIỀU 北 朝


Nam triều 南 朝


Lê Trang tôn 莊 宗
(1533-1548)
Niên-hiệu: Nguyên-hòa 元 和

Trang-tông húy là Duy-Ninh 維 寧 con rốt vua Chiêu-tông. Ông Nguyễn-Kim 阮 淦 lập ngài lên làm vua ở đất Cầm-châu (Lào), sau đưa ngài về Thanh-hóa, lập hành-điện ở Vạn-lại 萬 賴.

Trang-tông làm vua được 16 năm, thọ 31 tuổi.

Bắc-triều 北 朝


Thái-tổ Mạc Đăng-Dung
太 祖 莫 登 庸 (1527-1529)
Niên-hiệu: Minh-đức 明 德

Thái-tôn Mạc Đăng-Doanh
太 宗 莫 登 瀛 (1530-1540)
Niên-hiệu: Đại-chính 大 正

Nhà Lê trung-hưng lên ở Thanh-hóa.

Hiến-tôn Mạc Phúc-Hải
憲 宗 莫 福 海 (1541-1546)
Niên-hiệu: Quảng-hòa 廣 和

Lê Trung-tôn 黎 中 宗
(1548-1556)
Niên-hiệu: Thuận-bình 順 平

Trung-tôn húy là Duy-Huyên 維 暄, con vua Trang-tôn. Ngài làm vua được 8 năm, thọ 28 tuổi.

Lê Anh-tôn 黎 英 宗
(1556-1573)
Niên-hiệu: Thiên-hữu 天 祐 (1557) — Chính-trí 正 治 (1558-1571) — Hồng-phúc 洪 福 (1572-1573).

Anh-tôn húy là Duy-Bang 維 邦, cháu huyền-tôn ông Lê Trừ 黎 除, anh vua Thái-tổ ngày trước. Vua Trung-tôn không có con, cho nên ông Trịnh-Kiểm mới đi tìm ngài về lập nên làm vua.

Khi Trịnh-Kiểm mất rồi, quyền về Trịnh-Tùng, ngài phải trốn về Nghệ-an. Trịnh-Tùng sai người đuổi theo bắt về giết đi. Ngài làm vua được 16 năm, thọ 42 tuổi.

Lê Thế-tôn 黎 世 宗
(1573-1599)
Niên-hiệu: Gia-thái 嘉 泰 (1573-1577) — Quang-hưng 光 興 (1578-1599)

Thế-tôn húy là Duy-Đàm 維 潭, con thứ 5 vua Anh-tôn. Trịnh-Tùng lập ngài lên làm vua từ lúc còn 7 tuổi.

Trong đời ngài làm vua, Trịnh-Tùng giứt được họ Mạc, lấy lại đất Đông-đô. Ngài làm vua được 27 năm, thọ 33 tuổi.

Tuyên-tôn Mạc Phúc-Nguyên 宣 宗 莫 福 源
(1546-1561)
Niên-hiệu: Vĩnh-định 永 定 (1547) — Cảnh-lịch 景 曆 (1548-1553) — Quang-bảo 光 寶 (1554-1561)

Mạc-phúc-Nguyên cố đánh lấy Thanh-hóa nhưng không được.




Mạc-mậu-Hợp 莫 茂 洽
(1562-1592)
Niên-hiệu: Thuần-phúc 淳 福 (1562-1565) — Sùng-khang 崇 康 (1566-1577) — Diên-thành 延 成 (1578-1585) — Đoan-thái 端 泰 (1586-1587) — Hưng-trị 興 治 (1588-1590) — Hồng-ninh 洪 寧 (1591-1592)

Mạc-mậu-Hợp làm vua được 30 năm. Sau bị Trịnh-Tùng bắt được đem về chém ở Thăng-long và đem đầu vào bêu ở Thanh-hóa.

Nhà Mạc mất ngôi từ đấy. Nhưng con cháu được nhờ nhà Minh bênh vực, còn được giữ đất Cao-bằng ba đời nữa.

II. — TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH


Lê Kính-tôn 黎 敬 宗 (1600-1619)
Niên-hiệu: Thận-đức 慎 德 (1600) — Hoằng-định 弘 定 (1601-1619)


Kính tôn húy là Duy-Tân 維 新, con vua Thế-tôn. Ngài làm vua đến năm kỷ-mùi (1619) bị Trịnh-Tùng bắt phải thắt cổ mà tự tận. Trị vì được 20 năm, thọ 32 tuổi.

Trịnh

Bình-an-vương Trịnh-Tùng 鄭 松 (1570-1620)
Miếu-hiệu là: Thành-tổ Triết-vương

Trịnh-Tùng tranh quyền của anh, nối nghiệp Trịnh-Kiểm đánh phá nhà Mạc, lấy lại đất Đông đô. Lập ra nghiệp chúa Trịnh, nhưng vẫn tôn vua Lê.

Nguyễn

Đoan-quận-công Nguyễn-Hoàng 阮 潢 (1600-1613)

Truy tôn là Thái-tổ Gia-dụ Hoàng-đế, đương thời gọi là chúa Tiên.

Ông Nguyễn-Hoàng là con thứ hai ông Nguyễn-Kim, vào trấn đất Thuận-hóa và Quảng-nam lập ra nghiệp chúa Nguyễn.

Lấy đất của Chiêm-thành lập ra phủ Phú-yên. Mất năm quí-sửu (1613), thọ 89 tuổi.

Thụy-quận-công Nguyễn-phúc Nguyên 阮 福 源 (1613-1635)

Truy tôn là Hi-tông Hiến văn Hoàng-đế, đương thời gọi là chúa Sãi. Ngài là con thứ 6 ông Nguyễn-Hoàng, cải họ là Nguyễn-phúc 阮 福.

LÊ THẦN-TÔN 黎 神 宗 (1619-1643) (lần thứ nhất)
Niên-hiệu: Vĩnh-tộ 永 祚 (1620-1628) — Đức-long 德 隆 (1629-1643) — Dương-hòa 陽 和 (1635-1643)


Thần-tôn húy là Duy-Kỳ 維 祺, con vua Kính-tôn. Làm vua đến năm quí-mùi (1643) thì nhường ngôi cho Thái-tử, mà làm Thái-thượng-hoàng.

Trịnh

Trịnh Tùng mất năm quí-hợi (1635).

Thanh-đô-vương Trịnh-Tráng 鄭 梉 (1623-1657)
Miếu-hiệu là : Văn-tổ Nghị-vương.

Trịnh-Tráng đánh họ Mạc ở Cao-bằng và khởi sự đánh nhau với họ Nguyễn ở đất Quảng-bình.

Nguyễn

Ông Nguyễn-phúc-Nguyên chống với họ Trịnh ở Quảng-bình. Mất năm ất-hợi (1635), thọ 73 tuổi.

Nhân-quận-công Nguyễn-phúc-Lan 阮 福 瀾
(1635-1648)

Truy-tôn là Thần-tôn Hiếu-chiêu Hoàng-đế, đương thời gọi là chúa Thượng.

Ông Nguyễn-phúc-Lan là con thứ hai chúa Sãi, đánh nhau với họ Trịnh ở Quảng-bình.


LÊ CHÂN-TÔN 黎 真 宗 (1643-1649)
Niên-hiệu : Phúc-thái 福 泰


Chân-tôn húy là Duy-Hựu 維 祐 con vua Thần-tôn, làm vua được 6 năm, thọ 20 tuổi.

Trong đời ngài, vua nhà Minh là Quế-vương đóng ở Quảng-tây sai sứ sang phong cho ngài là An-nam quốc-vương.

Trịnh

Trịnh-Tráng đánh họ Nguyễn ở phía nam.

Nguyễn

Ông Nguyễn-phúc-Lan mất năm mậu-tí (1648), thọ 48 tuổi.

Dũng-quận công Nguyễn-phúc Tần 阮 福 瀕
(1648-1687)

Truy-tôn là Thái-tôn Hiếu-triết Hoàng-đế, đương thời gọi là chúa Hiền.

Ông Nguyễn-phúc Tần đánh nhau với họ Trịnh ở đất Nghệ-an. Lấy đất Chiêm-thành lập ra phủ Ninh-hòa và phủ Diên-khánh (tức là đất Khánh hòa bây giờ).


LÊ THẦN TÔN (1649-1662) (lần thứ hai)
Niên-hiệu : Khánh-đức 慶 德 (1649-1652) — Thịnh-đức 盛 德 (1653-1657) — Vĩnh-thọ (永 壽) (1658-1661) — Vạn-khánh (萬 慶) (1662).

Chân-tôn mất không có con. Trịnh-Tráng lại rước Thần-tôn Thái thượng-hoàng về làm vua. Lần thứ hai này ngài làm vua được 13 năm thì mất, thọ 56 tuổi

Trịnh

Trịnh Tráng mất năm đinh-dậu (1657).

Tây-vương Trịnh-Tạc 鄭 柞
(1657-1682)
Miếu-hiệu là: Hoằng-tổ Dương-vương

Trịnh-Tạc đánh con cháu nhà Mạc lấy lại đất Cao-bằng. Đặt ra lệ vào chầu vua không lạy, sớ tấu không viết tên, và đặt giường ngồi ở bên tả ngai vua ngự.

Nguyễn

Nguyễn-phúc Tần (Chúa Hiền).

LÊ HUYỀN-TÔN 黎 玄 宗 (1663-1671)
Niên-hiệu: Cảnh-trị 景 治


Huyền-tôn húy là Duy Vũ 維 禑, con thứ hai vua Thần-tôn. Trong đời ngài làm vua mới khởi đầu thông sứ với nhà Thanh, và cấm đạo Gia-tô. Ngài làm vua được 9 năm thọ 18 tuổi

Trịnh

Trịnh Tạc

Nguyễn

Nguyễn phúc-Tần
(Chúa Hiền)


LÊ GIA-TÔN 黎 嘉 宗 (1672-1675)
Niên-hiệu: Dương-đức 陽 德 (1672-1773) — Đức-nguyên 德 元 (1674-1675)


Gia-tôn húy là Duy-Hội 維 禬, con thứ ba vua Thần-tôn. Lúc ngài mới lên 2 tuổi thì Thần-tôn mất, Trịnh-Tạc, đem về nuôi trong phủ. Khi vua Huyền-tôn mất, không có con, Trịnh-Tạc lập ngài lên làm vua, được 4 năm thì mất, thọ 15 tuổi.

Trịnh

Trịnh Tạc

Nguyễn

Nguyễn phúc-Tần
(Chúa Hiền)


LÊ HI-TÔN 黎 熙 宗 (1676-1705)
Niên-hiệu: Vĩnh-trị 永 治 (1676-1680) — Chính-hòa 正 和 (1680-1705)


Hi tôn húy là Duy-Hợp 維 祫, con thứ tư vua Thần-tôn. Khi Thần-tôn mất, bà Trịnh-thị mới có thai được bốn tháng. Trịnh-Tạc đem về nuôi ở bên phủ. Gia-tôn mất không có con, Trịnh-Tạc lập lên làm vua được 29 năm rồi truyền ngôi cho Thái-tử mà làm Thái thượng-hoàng.

Trịnh

Trịnh-Tạc mất năm nhâm-tuất (1682).

Định-vương Trịnh-Căn
鄭 根
(1682-1709)
Miếu-hiệu là: Chiêu-tổ Khang-vương

Trịnh-Căn làm chúa được 28 năm thì mất, truyền ngôi chúa cho cháu huyền-tôn là Trịnh-Cương.

Nguyễn

Nguyễn-phúc-Tần mất năm đinh-mão (1687), thọ 68 tuổi.

Hoằng quốc-công Nguyễn-phúc-Trăn 阮 福 溱
(1687-1691)

Truy-tôn là Anh-tôn Hiếu-nghĩa Hoàng-đế, đương thời gọi là chúa Nghĩa.

Lập phủ ở Phú-xuân là chỗ kinh-đô bây giờ. Mất năm tân-mùi (1691), thọ 43 tuổi.

Tộ-quốc-công Nguyễn-phúc-Chu 阮 福 淍
{1691-1725)

Truy-tôn là Hiến-tôn Hiếu-minh Hoàng-đế, đương thời gọi là quốc-chúa.

Ông Nguyễn-phúc-Chu lấy hết nước Chiêm-thành (nay là đất Bình-thuận) và lại lấy đất Gia-định, Hà-tiên của Chân lạp.


LÊ DỤ-TÔN 黎 裕 宗 (1706-1729)
Niên-hiệu: Vĩnh-thịnh 永 盛 (1706-1719) — Bảo-thái 保 泰 (1720-1729)


Dụ-tôn húy là Duy-Đường 維 禟, làm vua được 24 năm, bị Trịnh-Cương bắt phải truyền ngôi cho Thái-tử là Duy-Phương. Mất năm tân-hợi (1731), thọ 52 tuổi.

Trịnh

Trịnh-Căn mất năm kỷ-sửu (1709).

An-đô-vương Trịnh-Cương 鄭 棡 (1709-1729)
Miếu-hiệu là: Hi-tổ Nhân-vương

Mất năm kỷ-dậu (1729).

Nguyễn

Nguyễn-phúc-Chu mất năm ất-tị (1725), thọ 51 tuổi, có 146 người con.

Đỉnh-quốc-công Nguyễn-phúc-Trú 阮 福 澍
(1725-1738)

Truy-tôn là Túc-tôn Hiếu-ninh Hoàng-đế mở-mang đất Gia-định, và bảo-hộ nước Chân-lạp.


LÊ ĐẾ DUY PHƯƠNG 維 祊 (1729-1732)
Niên-hiệu: Vĩnh-khánh 永 慶


Duy-phương làm vua được 3 năm, bị Trịnh Giang vu cho tư thông với vợ Trịnh-Cương, phải bỏ, giáng xuống làm Hôn-đức-công, rồi đến năm nhâm-tí (1732) thì bị giết.

Trịnh

Trịnh-Cương mất.

Uy-nam-vương Trịnh-Giang 鄭 杠 (1729 - 1740)
Miếu-hiệu là: Dụ-tổ Thuận-vương

Trịnh-Giang làm chúa xa xỉ và hung ác quá độ, giặc dã nổi lên rất nhiều.

Nguyễn

Nguyễn-phúc Trú


LÊ THUẦN-TÔN 黎 純 宗 (1732-1735)
Niên-hiệu: Long-đức 龍 德

Thuần-tôn húy là Duy-Tường 維 祥. Ngài là con vua Dụ-tôn, trước đã được lập làm Thái-tử, sau bị Trịnh-Cương bỏ để lập Duy-Phương. Trịnh-Giang lại bỏ Duy-Phương lập ngài lên làm vua, mất năm ất mão (1735), thọ 37 tuổi.

Trịnh

Trịnh Giang

Nguyễn

Nguyễn phúc-Trú

LÊ Ý-TÔN 黎 懿 宗 (1735-1740)
Niên-hiệu: Vĩnh-hữu 永 祐


Ý tôn húy là Duy-Thìn 維 祳, con vua Dụ-tôn, Trịnh-Giang bỏ con vua Thuần-tôn mà lập ngài.

Năm canh-thân (1740) Trịnh-Doanh bắt ngài phải nhường ngôi cho con vua Thuần-tôn, rồi làm Thái-thượng-hoàng, mất năm kỷ mão (1759), thọ 41 tuổi.

Trịnh

Trịnh-Giang bị bỏ năm canh thân (1740), làm Thái-thượng-vương. Em là Trịnh-Doanh lên thay.

Minh-đô-vương Trịnh-Doanh 鄭 楹 (1740-1767)
Miếu-hiệu là: Nghị-tổ Ân-vương

Trịnh-Doanh đánh dẹp giặc dã trong nước.

Nguyễn

Nguyễn-phúc Trú mất năm mậu-ngọ (1738), thọ 43 tuổi.

Võ-vương Nguyễn-phúc-Khoát 阮 福 濶
(1738-1765)

Truy-tôn là Thế-tôn Hiếu-võ Hoàng-đế.

Ông Nguyễn-phúc-Khoát đánh Chân-lạp mở thêm đất ở Gia-định.


LÊ HIẾN-TÔN 黎 顯 宗 (1740-1786)
Niên-hiệu: Cảnh-hưng 景 興

Hiến-tôn-húy là Duy Dao 維 祧, con vua Thuần-tôn. Làm vua được 46 năm, thọ 70 tuổi.

Trịnh

Trịnh-Doanh mất năm đinh-hợi (1767).

Tĩnh-đô-vương Trịnh-Sâm
鄭 森
(1767-1782)
Miếu-hiệu là: Thánh-tổ Thịnh-vương

Trịnh-Sâm dẹp yên giặc ở xứ Bắc. Lấy đất Thuận-hóa và đất Quảng-nam của chúa Nguyễn. Nhưng vì say đắm nàng Đặng-thị-Huệ, mới bỏ con trưởng lập con thứ, làm thành ra cái mối biến loạn. Mất năm nhâm-dần (1782).

Tôn-đô-vương Trịnh-Cán 鄭 澣. Làm chúa được 2 tháng bị lính Tam-phủ bỏ đi, lập anh là Trịnh-Khải lên làm chúa.

Đoan-nam-vương Trịnh-Khải 鄭 楷 (1783-1786)

Bị Tây-Sơn bắt được, phải tự tử năm bính ngọ (1786).

Nguyễn

Võ-vương Nguyễn-phúc-Khoát xưng vương hiệu năm giáp-tí (1744), và mất năm ất-dậu (1765).

Định-vương Nguyễn-phúc-Thuần 阮 福 淳
(1765-1777)

Truy tôn là Duệ-tôn Hiếu-định Hoàng-đế.

Đời ngài làm chúa bị Trương-phúc-Loan chuyên quyền. Quân Tây-sơn nổi lên đánh phía nam, quân họ Trịnh đánh phía bắc.

Sau quân chúa Trịnh vào lấy mất Phú xuân, Định-vương chạy vào Gia-định, bị tướng Tây-sơn là Nguyễn văn-Huệ giết mất. Ngài thọ 24 tuổi.

Nguyễn-vương Nguyễn phúc-Ánh 阮 福 暎, tức là vua Thế tổ Cao hoàng đế nhà Nguyễn khởi binh ở Gia-định.


LÊ MẪN-ĐẾ 黎 愍 帝 (1781-1788)
Niên-hiệu: Chiêu-thống 昭 統


Mẫn đế là cháu đích-tôn vua Hiến-tôn. Ngài bị quân Tây-sơn đánh thua chạy sang Tàu cầu cứu, sau đánh thua lại trở sang Tàu, bị quan Tàu làm nhục, rồi mất ở Yên kinh.

Trịnh

Ân-đô-vương Trịnh-Bồng 鄭 槰. Khi quân Tây-sơn về Nam rồi, đảng họ Trịnh lại lập Trịnh-Bồng lên làm chúa. Vua gọi Nguyễn Hữu-Chỉnh ra đánh họ Trịnh. Trịnh-Bồng bỏ đi tu.

Nguyễn

Nguyễn-vương Nguyễn-phúc-Ánh khôi phục đất Gia-định.