Việt Nam sử lược/Quyển II/1928/Quyển IV/Chương II

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG II



NAM TRIỀU, BẮC-TRIỀU
(1527 — 1592)



1. Chính-trị nhà Mạc. — 2. Việc nhà Mạc giao-thiệp với nhà Minh. — 3. Họ Nguyễn khởi nghĩa giúp nhà Lê. — 4. Quyền về họ Trịnh. — 5. Trịnh-Tùng thống lĩnh binh quyền. — 6. Khôi-phục thành Thăng-long. — 7. Nhà Mạc mất ngôi. — 8. Việc nhà Hậu-Lê giao-thiệp với nhà Minh. — 9. Con-cháu nhà Mạc ở Cao-bằng.



1. Chính-trị nhà Mạc. — Năm đinh-hợi 1527 Mạc-đăng-Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua, đặt niên-hiệu là Minh đức.

Nhà Mạc tuy đã làm vua, nhưng còn sợ lòng người nhớ nhà Lê, cho nên công việc gì cũng theo phép nhà Lê cả, rồi lại tặng phong cho những người vị nhà Lê mà tuẫn tiết, và lục dụng những con cháu các quan cựu thần, phong cho quan tước để dụ về với mình. Nhưng mà kẻ thì trốn tránh vào ở chỗ sơn lâm, kẻ thì đi ra ngoại quốc, kẻ thì đổi họ tên, không mấy người chịu phục. Lại có kẻ tức giận vì họ Mạc làm điều gian ác, tụ họp những người nghĩa khí nổi lên đánh phá, như Lê công Uyên 黎 公 淵, Nguyễn-Ngã 阮 我, Nguyễn-thọ-Trường 阮 壽 長 khởi nghĩa ở đất Thanh-hóa, nhưng vì thế lực không đủ, cho nên phải thua. Sau lại có Lê-Ý 黎 意 nổi lên đánh họ Mạc ở đất Mã-giang, mấy phen đã được thắng trận, nhưng cũng vì khinh địch cho nên đến nỗi phải bắt.

Mạc Đăng-Dung bắt-chước lối nhà Trần làm vua được ba năm thì nhường ngôi cho con là Mạc Đăng-Doanh 莫 登 瀛, rồi về ở Cổ-trai, làm Thái-thượng-hoàng.

Năm canh-dần (1530) Mạc Đăng-Doanh lên làm vua, đặt niên-hiệu là Đại-chính. Đăng-Doanh tuy làm vua nhưng công việc trong nước thường do Đăng-Dung quyết đoán cả.

Mạc-đăng-Doanh làm vua được 10 năm, đến năm canh-tí (1540) thì mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc-phúc-Hải.

Mạc-phúc Hải 莫 福 海 lên nối ngôi, đổi niên-hiệu là Quảng-hòa 廣 和.

2. Việc nhà Mạc giao-thiệp với nhà Minh. — Từ khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê rồi, quan nhà Lê đã có người sang kêu cầu bên Tàu để xin viện binh. Vua nhà Minh đã sai quan đi đến Vân-nam cùng với quan Tuần-phủ sở-tại tra xét bên An-nam thực hư thế nào.

Quan nhà Lê sang Vân-nam kể rõ việc họ Mạc làm điều thí nghịch. Quan nhà Minh tâu với vua xin cử binh mã sang đánh.

Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao-thiệp với nước kia thì thường là người ta chỉ mượn tiếng « vị nghĩa » mà làm những việc « vị lợi » mà thôi.

Năm đinh-dậu (1537) vua nhà Minh bèn sai Cừu-Loan 仇 鸞 làm Đô-đốc, ngươi Mao-bá-Ôn 毛 伯 温 làm Tán-lý-quân-vụ, đem quân sang đóng gần cửa Nam-quan, rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc-đăng-Dung thì thưởng cho quan tước và 2 vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc-đăng-Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất và nhân dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết.

Mạc-đăng-Dung sai bọn Nguyễn-văn-Thái 阮 文 泰 sang sứ nhà Minh để xin hàng.

Đến tháng 11 năm canh tí (1540), Mạc-đăng-Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc-phúc-Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ như-Quế 武 如 桂 cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam-quan, lạy phục xuống đất nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động: là động Tê-phù, động Kim-lạc, động Cổ xung, động Liễu-cát, động La-phù vào đất Khâm châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho quan nhà Minh.

Quan nhà Minh tuy làm bộ hống hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm Bình-định ngày trước, và lại được tiền bạc của Đăng-Dung rồi, cái lòng nhiệt-thành vị-quốc cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc Đăng-Dung làm chức Đô-thống-sứ 都 統 使 hàm quan nhị phẩm nhà Minh.

Mạc Đăng-Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch-thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch, để cầu lấy cái phú quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ.

Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một cái cơ-nghiệp dựng nên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền trặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung-hưng lên được.

3. Họ Nguyễn khởi nghĩa giúp nhà Lê, — Khi Mạc-đăng-Dung làm sự thoán-đoạt thì các quan cựu thần trốn tránh đi cũng nhiều. Thuở ấy có người con ông Nguyễn hoằng-Dụ 阮 弘 裕, tên là Nguyễn-Kim 阮 淦 (hay là Nguyễn-hoằng-Kim[1]) làm quan Hữu-vệ Điện-tiền Tướng-quân, An-thanh-hầu 右 衛 殿 前 將 軍 安 清 侯, trốn sang Ai-lao. Vua nước ấy là Xạ Đẩu 乍 斗 cho đến xứ Cầm-châu 岑 州 (thuộc Trấn-man phủ, về đất Thanh-hóa). Ông Nguyễn Kim đến ở Cầm-châu rồi cho người đi tìm con cháu nhà Lê để đồ sự khôi phục. Đến năm quí-tỵ (1532) tìm được một người con rốt vua Chiêu-tôn tên là Duy-Ninh 維 寧 lập lên làm vua, tức là Trang tôn 莊 宗.

Khi ấy lại có một người tướng giỏi tên là Trịnh-Kiểm 鄭 檢, ở làng Sóc-sơn, huyện Vĩnh-lộc, phủ Quảng-hóa. Ông Nguyễn-Kim thấy người có tài, gả con gái là Ngọc-Bảo cho, để cùng ra sức giúp nhà Lê, dứt nhà Mạc.

Vua tôi nhà Lê nương-náu ở Cầm-châu để chiêu tập quân sĩ, mãi đến năm canh-tí (1540), ông Nguyễn-Kim mới đem quân về đánh Nghệ-an. Năm nhâm-dần (1542) Trang-tôn mới cất quân về đánh Thanh hóa và Nghệ an, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất Tây-đô, quan Tổng-trấn nhà Mạc là Dương-chấp Nhất 楊 執 一 ra hàng.

4. Quyền về họ Trịnh. — Năm ất-tỵ (1545) ông Nguyễn-Kim đem quân tiến lên đánh Sơn-nam, đi đến huyện Yên-mô bị ngươi Dương Chấp-Nhất là hàng-tướng nhà Mạc, đánh thuốc độc chết. Những binh quyền giao cả lại cho con rể là Trịnh-Kiểm.

Trịnh-Kiểm rút quân về Thanh-hóa lập hành-điện ở đồn Vạn lại (thuộc huyện Thụy-nguyên, Thanh-hóa) để cho vua ở, rồi chiêu mộ những kẻ hào kiệt luyện tập quân-sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc đánh họ Mạc.

Bấy giờ có những người danh sĩ như là bọn ông Phùng-khắc-Khoan 馮 克 寬 (tức là trạng Bùng), ông Lương-hữu-Khánh 梁 有 慶 đều vào giúp nhà Lê. Giang sơn bấy giờ chia làm hai: từ Thanh hóa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam-Triều; từ Sơn-nam trở ra thuộc về họ Mạc, làm Bắc-triều.

Năm bính-ngọ (1546) Mạc phúc-Hải mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc phúc-Nguyên 莫 福 源, niên-hiệu Vĩnh-định.

Năm mậu-thân (1548) vua Trang-tôn mất, Trịnh-Kiểm lập Thái-tử tên là Duy-Huyên 維 暄 lên làm vua, được 8 năm thì mất, tức là Trung-tôn.

Vua Trung-tôn mất không có con, mà bấy giờ dòng dõi họ Lê cũng không có ai, việc binh quyền thì ở trong tay Trịnh-Kiểm cả.

Tục truyền rằng Trịnh-Kiểm đã lưỡng-lự muốn tự xưng làm vua, nhưng còn chưa dám định hẳn bề nào, các quan cũng không ai biết làm thế nào cho phải. Sau Trịnh-Kiểm cho người đi lẻn ra Hải-dương hỏi ông Nguyễn-bỉnh-Khiêm 阮 秉 謙[2], tức là trạng Trình, xem nên làm thế nào.

Ông Nguyễn-bỉnh-Khiêm không nói gì cả, chỉ ngảnh lại bảo đầy-tớ rằng: « Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ ». Nói rồi lại sai đầy-tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương, để ông ra chơi chùa, rồi bảo tiểu rằng: « Giữ chùa thờ phật thì ăn oản ».

Sứ giả về kể chuyện lại cho Trịnh-Kiểm nghe. Trịnh-Kiểm hiểu ý, mới cho người đi tìm con cháu họ Lê. Sau tìm được người cháu huyền-tôn ông Lê-Trừ 黎 除 là anh vua Thái-tổ, tên là Duy-Bang 維 邦, ở làng Bố-vệ, huyện Đông sơn, rước về lập lên làm vua.

Bấy giờ nhà Lê thì lo đánh họ Mạc, để khôi phục lại đất Đông đô nhà Mạc thì muốn trừ họ Lê, để nhất thống thiên-hạ. Nhưng từ khi ông Nguyễn-Kim mất rồi, và trong mấy năm về đời vua Trung-tôn, Trịnh-Kiểm cứ giữ thế thủ ở đất Thanh-hóa, để sửa sang việc binh lương, đợi ngày ra đánh họ Mạc.

Nhà Mạc sai Mạc-kính-Điển 莫 敬 典, là chú Mạc-phúc-Nguyên cầm quân đi đánh họ Lê.

Mạc kính-Điển đem binh vào đánh Thanh-hóa cả thảy kể hơn 10 phen, phen nào cũng phải thua trở về. Trịnh-Kiểm cũng ra đánh Sơn-nam kể vừa 6 lần, nhưng không có lần nào được toàn thắng. Chỉ có năm kỷ-mùi (1559) Trịnh-Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt bắc, đã lấy được những tỉnh Sơn-tây, Hưng-hóa, Thái-nguyên, Kinh-bắc, Lạng-sơn và các huyện ở mặt Hải-dương, tưởng đã sắp thành công, nhưng lại bị Mạc-kính-Điển đem một đạo quân đi đường bộ vào đánh Thanh hóa nguy cấp lắm, Trịnh-Kiểm lại phải bỏ xứ bắc về giữ đất Tây đô. Thành ra hai bên cứ giữ nhau mãi: nhà Lê tuy đã trung hưng, nhưng giang-sơn vẫn chưa thu lại được như cũ, mà nhà Mạc có làm vua, thì cũng chỉ làm vua ở xứ Bắc mà thôi.

Năm tân-dậu (1561) vua nhà Mạc là Phúc Nguyên mất, con là Mạc-mậu-Hợp 莫 茂 洽 lên nối ngôi làm vua.

Việc tranh chiến vẫn cứ như trước: khi thì Trịnh-Kiểm ra đánh Sơn-nam khi thì Mạc-kính-Điển vào đánh Thanh-hóa, hai bên không bên nào được hẳn mà cũng không bên nào thua hẳn.

5. Trịnh-Tùng thống lĩnh binh quyền. — Năm canh-ngọ (1570) Trịnh-Kiểm mất, trao quyền lại cho con trưởng là Trịnh-Cối 鄭 檜 để lo việc đánh dẹp. Nhưng Trịnh-Cối hay say đắm tửu sắc, tướng sĩ không mấy người phục; lại có em là Trịnh-Tùng 鄭 松 ý muốn cướp quyền của anh, bèn cùng với bọn Lê-cập-Đệ 黎 及 第, Trịnh Bách 鄭 佰 rước vua về đồn Vạn-lại, rồi chia quân ra chống với Trịnh-Cối.

Đương khi hai anh em họ Trịnh đánh nhau, thì Mạc-kính-Điển lại đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh-hóa, Trịnh Cối liếu thế địch không nổi, bèn đem quân về hàng họ Mạc được giữ quan tước như cũ. Quân nhà Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mã-giang, tràn sang đóng ở đất Hà-trung, rồi đến vây đánh An-trường (thuộc huyện Thụy-nguyên) là chỗ vua nhà Lê đóng.

Bấy giờ vua Anh-tôn về ở Đông-sơn, phong cho Trịnh-Tùng làm Tả-thừa-tướng, tiết chế chư quân, để chống giữ với quân nhà Mạc. Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi rất là chắc chắn. Mạc-kính-Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương phải rút quân về bắc.

Quân nhà Mạc rút về rồi, vua phong cho Trịnh-Tùng làm Thái-úy, Trưởng-quốc-công 太 尉 長 國 公, và thăng-thưởng cho các tướng sĩ. Lại sai ông Phùng-khắc-Khoan đi chiêu tập những hoang dân ở Thanh-hóa về yên nghiệp làm ăn, và chỉnh-đốn việc chính-trị lại.

Bấy giờ công việc gì cũng do ở Trịnh-Tùng quyết đoán cả, uy quyền hống hách, vua cũng lấy làm lo. Lê-cập-Đệ 黎 及 第 thấy vậy, mưu với vua để trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh-Tùng biết ý dùng mưu giết Cập-Đệ đi, vua Anh-tôn biết sự không thành, lo sợ lắm, bèn cùng với bốn hoàng-tử chạy vào Nghệ an.

Trịnh-Tùng thấy vua xuất ngoại rồi, bèn cho người đi rước hoàng-tử thứ năm là Duy-Đàm 維 潭 ở làng Quảng-thi, huyện Thụy-nguyên về lập nên làm vua, rồi sai ngươi Nguyễn-hữu-Liêu 阮 有 僚 đem binh đi đuổi theo vua Anh-tôn.

Anh-tôn vào đến đất Nghệ-an, thấy quân đuổi đến, vội-vàng ẩn vào trong vườn mía, nhưng bị Hữu-Liêu tìm thấy đưa về, đến huyện Lôi-dương thì Trịnh-Tùng sai người đến giết đi, rồi nói rằng vua tự thắt cổ chết.

Trịnh-Tùng giết vua Anh-tôn rồi thăng thưởng cho những người đồng đảng với mình, và chia quân phòng giữ các nơi để chống với quân nhà Mạc.

Từ năm quí-dậu (1573) cho đến năm quí-vị (1583) vừa 10 năm, Trịnh-Tùng cứ giữ vững đất Thanh-hóa, Nghệ-an, để cho quân nhà Mạc vào đánh phải hao binh tổn tướng. Trong bấy nhiêu năm tướng nhà Mạc là Mạc-kính-Điển 莫 敬 典, Nguyễn-Quyện 阮 倦, và Mạc ngọc-Liễn 莫 玉 璉, khi thì vào đánh Thanh-hóa, khi thì vào đánh cả mặt Thanh và mặt Nghệ, nhưng mà không bao giờ thành công: phen nào cũng chỉ được một vài trận rồi lại thua, phải rút quân về.

Từ năm ất-mão (1579) trở đi, Mạc-kính-Điển mất rồi, Mạc-đôn-Nhượng 莫 敦 讓 đem binh vào đánh họ Lê, nhưng cũng không được trận nào.

6. Khôi phục thành Thăng-long. — Đến năm quí-mùi (1583) Trịnh-Tùng xem thế mình đã mạnh, mới cử binh mã ra đánh Sơn-nam lấy được thóc gạo đem về. Từ đó về sau năm nào cũng ra đánh, bắt quân nhà Mạc phải đổi thế công ra thế thủ. Và nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một mạnh, bèn bắt quân dân đắp ba từng lũy, đào ba lần hào ở ngoài thành Đại-la để làm kế thủ bị.

Quân nhà Lê ra đánh trận nào được trận ấy, Trịnh-Tùng bèn quyết ý cử đại binh ra đánh Thăng-long.

Năm tân-mão (1591) Trịnh-Tùng sai Diễn-quận-công Trịnh văn-Hải 演 郡 公 鄭 文 海, Thái-quận công Nguyễn thất-Lý 太 郡 公 阮 七 里 đem binh trấn thủ các cửa bể và các nơi hiểm yếu. Sai Thọ-quận-công Lê-Hòa 壽 郡 公 黎 和 ở lại giữ ngự-dinh và cả địa hạt Thanh-hóa. Phòng bị đâu đấy rồi, bèn đem hơn 5 vạn quân chia ra làm 5 đội, sai quan Thái-phó Nguyễn Hữu-Liêu 太 傅 阮 有 僚, quan Thái-úy Hoàng Đình-Ái, 太 尉 黄 廷 愛, Lân-quận-công Hà Thế-Lộc 麟 郡 公 何 世 禄, Thế-quận-công Ngô Cảnh-Hựu 世 公 郡 吳 景 祐, mỗi người lĩnh một đội, còn Trịnh-Tùng tự lĩnh 2 vạn quân ra cửa Thiên-quan (Ninh-bình), qua núi Yên-mã (ở huyện An-sơn) đất Tân-phong (tức là Tiên-phong) rồi kéo về đóng ở Tốt-lâm (?)

Vua nhà Mạc là Mạc Mậu-Hợp cũng điều tất cả quân bốn vệ và quân năm phủ được hơn 10 vạn, sai Mạc Ngọc-Liễn và Nguyễn-Quyện lĩnh hai đạo đi làm tả hữu dực; Mậu-Hợp tự dẫn trung quân đến đóng đối trận với quân Trịnh-Tùng.

Trịnh-Tùng thấy quân Mạc đã đến, bèn tự mình đốc tướng sĩ thề đánh cho được giặc để báo thù. Quân họ Trịnh đánh rất hăng, quân nhà Mạc chống không nổi, thua to, chết đến hàng vạn người. Mạc-mậu-Hợp bỏ chạy. Quân họ Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng-long. Nhưng vì bấy giờ vừa đến tết Nguyên-đán, cho nên Trịnh-Tùng đình chiến lại cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn tết. Qua sang tháng giêng năm nhâm-thìn (1592) Trịnh-Tùng lập đàn tế trời đất và các vua nhà Lê rồi đặt ba điều ước để cấm quân sĩ:

  1. Không được vào nhà dân mà lấy đồ ăn và lấy củi đuốc.
  2. Không được cướp lấy của-cải và chặt lấy cây-cối.
  3. Không được dâm hiếp đàn-bà con gái, và không được vị tư thù ma giết người.

Ai phạm ba điều ấy thì cứ theo quân pháp mà trị. Đoạn rồi, tiến quân lên đánh Thăng-long-thành.

Mạc-mậu-Hợp thấy quân nhà Lê lại tiến lên, bèn sai Mạc-ngọc-Liễn 莫 玉 璉, Bùi-văn-Khuê 裴 文 奎, Nguyễn-Quyện 阮 倦 và Trần-bách Niên 陳 百 年 ở lại giữ thành Thăng-long, rồi đem quân sang sông Nhị hà về đóng ở làng Thổ-khối 土 塊

Trịnh-Tùng sai tướng chia quân vây đánh các cửa thành. Quân nhà Mạc giữ không nổi, ba tầng lũy đều phải phá cả, bọn Mạc-ngọc-Liễn, Bùi-văn-Khuê phải bỏ thành mà chạy, Nguyễn-Quyện thì phải bắt.

Trịnh-Tùng lấy được thành Thăng-long rồi bắt quân phá những hào lũy đi, sau phẳng ra làm bình địa, rồi về Thanh-hóa đem tin thắng trận cho vua biết.

Sử không nói rõ tại làm sao Trịnh-Tùng đã lấy được Thăng-long mà không đánh rấn đi, lại bỏ về Thanh-hóa. Có lẽ là tại quân họ Trịnh tuy thắng trận, nhưng tướng sĩ đều mỏi mệt cả, vả lại thế họ Mạc hãy còn mạnh, ở lại sợ giữ không nổi, cho nên phải bỏ mà về.

Trịnh-Tùng đã bỏ Thăng-long về Thanh-hóa, nhưng Mạc-mậu-Hợp không biết nhân lấy dịp ấy mà sửa sang việc vũ-bị, chỉnh-đốn việc chính-trị, lại cứ say đắm tửu sắc, bạc đãi các tướng sĩ, đến nỗi công việc hỏng nát, thân mình bị hại.

Bấy giờ Bùi-văn-Khuê có người vợ tên là Nguyễn-thị 阮 氏 nhan sắc hơn người, Mạc mậu Hợp muốn giết Văn-Khuê đi để lấy Nguyễn-thị làm vợ.

Văn Khuê biết ý đem vợ vào ở huyện Gia-viễn (thuộc Ninh-bình). Mậu-Hợp cho quân vào bắt. Văn-Khuê phải xin về hàng với Trịnh Tùng.

7. Nhà Mạc mất ngôi. — Trịnh-Tùng được Văn Khuê về hàng, mừng lắm, liền sai Hoàng-đình-Ái ra đón Văn-Khuê rồi đem đi làm tiền đội, tự mình lại đem đại binh trở ra Tràng-an gặp quân nhà Mạc ở sông Thiên-phái (ở về cuối huyện Ý yên và huyện Phong-doanh, tỉnh Nam-định), đánh nhau một trận, lấy được 70 chiếc thuyền. Tướng nhà Mạc là Trần-bách-Niên về hàng.

Quân Trịnh-Tùng kéo ra Bình-lục, sang Thanh-oai đóng ở bãi Tinh-thần (bây giờ là xã Thanh-thần ở huyện Thanh-oai) rồi tiến lên đến sông Hát giang (cửa sông Đáy ra sông Hồng-hà) gặp tướng nhà Mạc là Mạc-ngọc-Liễn, đánh đuổi một trận lấy được chiến-thuyền kể hàng nghìn chiếc.

Mạc-mậu-Hợp được tin quân mình thua to, bỏ thành Thăng-long chạy sang Hải-dương về đóng ở Kim-thành 金 城 thuộc Hải-dương.

Trịnh-Tùng ra đến Thăng-long, rồi sai Nguyễn-thất-Lý, Bùi-văn-Khuê và Trần-bách-Niên sang đánh Mậu Hợp ở Kim-thành, lấy được vàng bạc của cải nhiều lắm và bắt được mẹ Mậu-Hợp đem về.

Mạc-mậu-Hợp thấy quân mình thua luôn, bèn giao quyền chính-trị cho con là Mạc-Toàn 莫 全 rồi tự mình làm tướng đem quân đi đánh.

Bấy giờ quan nhà Mạc là bọn Đỗ-Uông 杜 汪, Ngô-Tạo 吳 慥 cả thảy 17 người về hàng nhà Lê.

Trịnh Tùng sang đóng quân ở huyện Vĩnh lại, rồi sai Phạm-văn-Khoái 范 文 快 đem quân đi đuổi đánh Mậu Hợp ở huyện Yên dũng và huyện Vũ-ninh (nay là Vũ-giang) Mạc-mậu-Hợp phải bỏ thuyền chạy lên bộ, vào ẩn trong cái chùa ở huyện Phượng-nhỡn Văn Khoái đuổi đến đấy, có người chỉ dẫn bắt được đem về Thăng-long, làm tội sống ba ngày, rồi chém đầu đem vào bêu ở trong Thanh-hóa.

Bấy giờ có con Mạc-kính-Điển là Mạc-kính-Chỉ 莫 敬 止 ở đất Đông-triều biết tin Mạc-mậu-Hợp đã bị bắt, bèn tự lập làm vua, đóng ở huyện Thanh-lâm. Con cháu họ Mạc hơn 100 người và các quan văn vũ đều về đấy cả, rồi treo bảng chiêu mộ quân sĩ, chẳng bao lâu được sáu bảy vạn người. Mạc-Toàn là con Mạc-mậu-Hợp cùng theo về với Mạc kính-Chỉ.

Trịnh-Tùng thấy Kính-Chỉ lại nổi lên thanh thế to lắm, quan quân đánh mãi không được, bèn đem quân sang đánh ở huyện Cẩm giàng và huyện Thanh lâm, bắt được Kính-Chỉ, và con cháu họ Mạc cùng các quan cả thảy hơn 60 người.

Trịnh Tùng đánh được trận ấy, rồi về Thăng-long, sai quan vào rước vua Thế-tôn ra Đông-đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng sĩ.

Năm sau tướng nhà Mạc là Mạc-ngọc-Liễn tìm được một người con Mạc-kính-Điển là Mạc-kính-Cung 莫 敬 恭 lập lên làm vua, chiếm giữ châu Yên-bác ở đất Lạng-sơn để làm căn bản. Nhưng chẳng bao lâu quan Thái-úy là Hoàng-đình-Ái đem binh lên đánh. Mạc-kính-Cung và Mạc ngọc-Liễn phải chạy sang Long-châu. Ít lâu Ngọc-Liễn chết có để thư lại dặn Kính-Cung rằng: « Nay họ Lê lại dấy lên được, ấy là số trời đã định; còn dân ta thì có tội gì, mà ta nỡ để khổ sở mãi về việc chiến-tranh? Vậy ta nên đành phận lánh mình ở nước ngoài, chứ đừng có đem lòng cạnh tranh mà lại mời người Tàu sang làm hại dân nước mình.

Trung hậu thay, mấy lời dạy lại của Mạc-ngọc-Liễn! Chỉ tiếc vì họ Mạc không ai chịu theo!

Từ đó nhà Mạc mất ngôi làm vua, ngày sau tuy Mạc-kính-Cung nhờ có nhà Minh bênh vực được về ở đất Cao-bằng, nhưng cũng là ở một chỗ nhỏ mọn gần chỗ biên thùy mà thôi.

Nhà Mạc làm vua từ Mạc-đăng-Dung cho đến Mạc-mậu Hợp là từ năm đinh-hợi (1527) đến năm nhâm-thìn (1592) kể vừa được 65 năm.

Trịnh-Tùng tuy đã lập được công to: giứt được nhà Mạc, lấy lại được đất Đông-đô, nhưng nhà Minh vẫn có ý bênh nhà Mạc không chịu nhận nhà Lê. Và con cháu họ Mạc hãy còn nhiều; nay xưng vương chỗ này, mai khởi loạn chỗ khác, cho nên Trịnh-Tùng phải một mặt dùng trí mà giữ cho nhà Minh khỏi quấy nhiễu, và một mặt dùng lực mà đánh dẹp dư đảng họ Mạc.

8. Việc nhà Hậu-Lê giao-thiệp với nhà Minh. — Khi Trịnh-Tùng đã thu phục được thành Thăng-long rồi, người nhà Mạc sang kêu với vua nhà Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi, chứ không phải con cháu nhà Lê.

Vua nhà Minh sai quan đến Nam-quan khám xét việc ấy.

Tháng 3 năm bính-thân (1596) vua Thế-tôn sai quan Hộ-bộ Thượng-thư là Đỗ-Uông 杜 汪 và quan Đô-ngự-sử là Nguyễn-văn-Giai 阮 文 階 lên Nam-quan tếp quan Tàu. Sau lại sai 2 ông hoàng-thân là Lê-Cánh 黎 梗, Lê-Lựu 黎 榴 cùng với quan Công-bộ tả-thị-lang là ông Phùng-khắc-Khoan 馮 克 寬 đem 10 người kỳ mục, 100 cân vàng, 1.000 cân bạc, cái ấn An-nam Đô-thống-sứ của nhà Mạc và cái ấn An-nam quốc-vương của vua nhà Lê ngày trước, sang cho quan nhà Minh khám. Nhưng quan nhà Minh lại bắt vua Thế-tôn phải thân hành sang hội ở cửa Nam-quan.

Trịnh-Tùng sai bọn Hoàng-đình-Ái 黄 廷 愛, Nguyễn-hữu Liêu 阮 有 僚 đem một vạn quân đi hộ giá, đưa vua sang phó hội. Sang đến nơi quan nhà Minh lại đòi phải nộp người vàng và ấn vàng như tích cũ, rồi không chịu đến hội. Vua chờ lâu, không xong việc lại phải trở về.

Đến tháng tư năm sau sứ nhà Minh lại sang mời vua Thế-tôn lên hội ở Nam-quan. Triều-đình sai quan Thái-úy Hoàng Đình-Ái đem 5 vạn quân đi hộ giá sang hội ở Nam-quan.

Đến khi xa giá về, Trịnh-Tùng đem các quan đi đón mừng rồi sai Công-bộ tả-thị-lang Phùng-khắc-Khoan 馮 克 寬 làm Chánh-sứ, quan Thái-thường tự-khanh Nguyễn-nhân Thiềm 阮 仁 贍 làm phó-sứ, đem đồ lễ sang Yên-kinh cống nhà Minh và xin phong.

Vua nhà Minh chỉ phong cho vua Thế-tông làm An-nam Đô thống sứ. Ông Phùng-khắc-Khoan dâng sớ tâu rằng: « Đô thống sứ là chức cũ của họ Mạc, chứ vua nước Nam là dòng dõi họ Lê, mà phong cho chức ấy thì không xứng đáng ». Vua nhà Minh nói giả lờ rằng: vẫn biết họ Lê không ví như họ Mạc, nhưng lúc đầu mới phong, hãy tạm cho chức ấy, rồi về sau sẽ phong vương.

Ông Phùng-khắc-Khoan phải chịu mà về. Từ đó nhà Minh với nhà Lê lại thông sứ như trước.

9. Con cháu nhà Mạc ở Cao-bằng — Từ khi Mạc-mậu-Hợp và Mạc-kính-Chỉ phải bắt rồi, con cháu họ Mạc ẩn ở các nơi để mong đường khôi phục. Bấy giờ có Mạc kính-Chương 莫 敬 章 xưng làm Tráng-vương 壯 王, chiếm giữ từ huyện Đông-triều cho đến đất Yên-quảng.

Năm bính-thân (1596) Trịnh-Tùng sai quan Trấn-thủ Hải-dương là Phan-Ngạn 潘 彥 đánh bắt được Kính-Chương.

Lại có ngươi Mạc-kính-Dụng 莫 敬 用 là con Mạc-kính-Chỉ chiếm giữ đất Yên-bắc (Lạng-sơn) xưng làm Uy-vương 威 王, nhưng cũng chẳng bao lâu bị quân họ Trịnh bắt được.

Còn Mạc-kính-Cung 莫 敬 恭 trước đã chạy sang ở Long châu, sau lại về cùng với đảng mình đánh phá ở đất Cao bằng và đất Lạng-sơn. Trịnh-Tùng sai quan lên đuổi đánh nhưng Mạc-kính-Cung sang kêu với nhà Minh, vua nhà Minh cho đưa thư sang bắt nhà Lê phải để đất Cao-bằng cho con cháu họ Mạc.

Nhà Lê bất-đắc-dĩ phải để đất Cao-bằng cho họ Mạc ở.



Mạc-triều thế-phổ 莫 朝 世 譜


1. Mạc-đăng-Dung
莫 登 庸
2. Mạc đăng Doanh
莫 登 瀛
Mạc-chính-Trung
莫 正 中
3. Mạc-phúc-Hải
莫 福 海
Mạc-kính Điển
莫 敬 典
Mạc-đôn Nhượng
莫 敦 讓
4. Mạc-phúc-Nguyên
莫 福 源
Kính-Chỉ
敬 止
Kính-Phu
敬 敷
Kính-Chương
敬 章
Kính-Thận
敬 慎
Kính-Giản
敬 劗
Kính-Tuân
敬 遵
Kính Cung
敬 恭
5. Mạc-mậu-Hợp
莫 茂 洽
Kính-Dụng
敬 用
Kính-Khoan
敬 寬
Mạc Toàn
莫 全
Kính Vũ
敬 宇 (完)
  1. Xem sách Việt-nam khai-quốc-chí truyện, thì ông Nguyễn-Kim tức là ông Nguyễn-hoằng Kim, là con ông Nguyễn-hoằng-Dụ, cháu ông Nguyễn-văn-Lang, đều làm quan nhà Lê cả.
  2. Ông Nguyễn-bỉnh-Khiêm làm quan nhà Mạc, được phong là Trình-quốc-công cho nên mới gọi là trạng Trình, sau về trí sĩ ở làng Trung-an, huyện Vĩnh-lại, tỉnh Hải-dương