Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần V/Chương VI

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG VI

CHẾ-ĐỘ VÀ TÌNH-THẾ NƯỚC VIỆT-NAM ĐẾN CUỐI ĐỜI TỰ-ĐỨC

  1. Cách tổ-chức chính-trị và xã-hội
  2. Bốn hạng dân
  3. Sự sinh-hoạt của người trong nước

1. CÁCH TỔ-CHỨC CHÍNH-TRỊ VÀ XÃ-HỘI. Nước Việt-nam tuy nói là một nước quân-chủ chuyên-chế[1], nhưng theo cái tinh-thần và cách tổ-chức của xã-hội thì có nhiều chỗ rất hợp với cái tinh-thần dân-chủ. Nguyên Nho-giáo là cái học căn-bản của nước ta khi xưa, mà về đường thực-tế, thì cái học ấy rất chú-trọng ở sự trị nước. Trị nước thì phải lấy dân làm gốc (以 民 爲 本), nghĩa là phải lo cho dân được sung-túc, phải dạy-dỗ dân cho biết đạo-lý và mở-mang trí-tuệ của dân. Những việc quan-trọng như thế không phải bất cứ ai cũng làm được, tất là phải có những người có đủ đức-hạnh, tài-năng và uy-quyền mới có thể đảm-đang được. Bởi vậy cho nên mới cần có vua có quan.

Vua: Theo cái lý-thuyết của Nho-giáo, thì khi đã có quần-chúng, là phải có quân. Quân là một đơn-vị giữ cái chủ-quyền để chịu hết thảy các trách-nhiệm về sự sinh-hoạt và tính-mệnh của toàn dân trong nước. Cái đơn-vị ấy gọi đế hay là vương, được giữ cái chủ-quyền cả nước. Cái chủ-quyền ấy người ta còn gọi là cái thần-khí 神 器, nghĩa là một vật thiêng-liêng do trời cho, tức là dân thuận mới được giữ. Nói rằng những người làm những điều gian-ác bạo-ngược mà cướp lấy chủ-quyền thì sao? Đó là sự tiếm-đoạt chứ không phải là chính nghĩa. Ngay những người đã làm đế làm vương mà lạm-dụng chủ-quyền để làm những điều tàn-bạo, thì cũng chỉ là người tàn-tặc mà thôi, chứ không phải là thật bậc đế bậc vương nữa.

Triều-đình: Sở-dĩ đời xưa quần-chúng công-nhận một ông vua giữ cái chủ-quyền cả nước, là muốn cho có mối thống-nhất để khỏi sự tranh-dành và cuộc biến-loạn. Song việc trị nước là việc chung cả nước, cho nên có vua là phải có triều-đình. Triều-đình không phải là một nhóm cận-thần để hầu-hạ và làm việc riêng cho nhà vua, chính là một hội-nghị chung cả nước, do sự kén-chọn những người xứng-đáng bằng cách thi-cử mà đặt ra. Cách thi-cử không phân biệt sang-hèn giàu-nghèo gì cả, miễn là ai có học, có hạnh và có đủ tài-năng thì được ra ứng thí. Người nào đã đỗ rồi và đã ra làm quan là người ấy có chân ở trong triều-đình.

Lệ nhà vua, mỗi tháng phải mấy lần thiết đại-triều, các quan tại kinh đều phải đến đủ mặt và theo phẩm-trật mà đứng để tâu-bày mọi việc. Bởi vì khi có việc gì quan-trọng, thì vua hạ đình-nghị, nghĩa là giao cho đình-thần bàn xét. Các quan bất kỳ lớn bé đều được đem ý-kiến của mình mà trình-bày. Việc gì đã quyết-định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi-hành.

Vua tuy có quyền lớn thật, nhưng không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm điều gì lầm-lỗi, thì các quan Giám-sát ngự-sử 監 察 御 史 phải tâu-bày mà can-ngăn vua. Trừ những ông vua bạo-ngược không kể, thường là vua phải nghe lời can-ngăn của các quan.

Hễ triều-đình có những người ngay-chính và sáng-suốt, thì việc nước được yên-trị; nếu có những người gian-nịnh mờ-tối, thì việc nước hư-hỏng. Đó là lệ chung từ xưa đến nay như vậy.

Quan-tư: mệnh-lệnh của triều-đình đã phát ra, thì quan-tư ở các quận huyện phải theo mà thi-hành. Các quan coi các quận huyện có nhiệm-vụ dạy-dỗ dân, đừng để dân làm những điều trái luân-thường đạo-lý hay những việc phản loạn. Ngoài ra quan phải để cho dân được yên nghiệp làm ăn, không nên bày việc ra để nhiễu dân. Bởi vậy đời xưa ông quan nào cai-trị một hạt mà dân hạt ấy được yên-trị là ông quan giỏi.

Quyền tự-trị của dân làng: Quan của triều-đình bổ ra chỉ có đến phủ huyện, còn từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự-trị của dân. Dân tự chọn lấy người của mình mà cử ra coi mọi việc trong hạt. Tổng là một khu gồm có mấy làng hay xã, có một cai-tổng và một phó-tổng do hội-đồng kỳ-dịch các làng cử ra coi việc thuế-khóa, đê-điều và mọi việc trị an trong tổng.

Làng hay xã là phần-tử cốt-yết của dân. Phong-tục, lệ-luật của làng nào hay làng ấy, triều-đình không can-thiệp đến, cho nên tục-ngữ có câu: « phép vua thua lệ làng ». Làng có hội-đồng kỳ-dịch do dân cử ra để trông coi hết cả mọi việc. Hội-đồng ấy có người tiên-chỉ và thứ-chỉ đứng đầu, rồi có lý-trưởng và phó-lý do hội-đồng kỳ-dịch cử ra để thay mặt làng mà giao-thiệp với quan-tư, có tuần đinh chuyên coi việc cảnh-sát trong làng. Khi một người nào can phạm việc gì thì quan trách-cứ ở làng, cho nên ai đi đâu hay làm việc gì cũng phải lấy làng làm gốc.

Ngày xưa các làng không có sổ khai sinh-tử và giá-thú, nhưng tục-lệ của làng, cứ con trai đến 12 tuổi thì phải vào làng, tức là vào sổ đinh của làng, con gái thì không có lệ ấy. Lại vì sự thờ-cúng tổ-tiên và sự tin số, tướng v.v. cho nên nhà nào đẻ con ra, bất kỳ trai hay gái, cha mẹ phải nhớ cho đúng giờ, ngày tháng và năm sinh của đứa con ấy. Bởi vậy người nào cũng biết rõ ngày tháng sinh của con mình.

Việc giá-thú là việc quan-hệ về gia-tộc, phải làm đúng lệ thường, nhưng đối với làng, thì tục-lệ bắt người chồng khi cưới vợ, phải trình làng và nộp cho làng một số mấy quan tiền, gọi là nộp tiền cheo. Như thế, thành ra theo tục-lệ, tuy không có sổ khai sinh-tử giá-thú, mà mọi điều cũng đủ như là có vậy.

2. BỐN HẠNG DÂN. Người trong nước chia ra làm bốn hạng là: sĩ, nông, công, thương.

Công: Công là hạng người làm thợ hoặc làm một công-nghệ gì để lấy lợi. Nhưng vì nước ta khi xưa chỉ có những tiểu công-nghệ, như quây tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài-lưới, làm mắm muối v.v., chứ không có đại công-nghệ làm giàu như các nước khác. Đại công-nghệ đã không có thì những người làm thợ, ai chuyên tập nghề gì thì lập thành phường, như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ đúc, thợ gốm v.v... Mỗi phường có thợ cả, thợ phó và thợ, và phường nào có tục-lệ của phường ấy. Những người làm nghề thợ thường là người ít học, quanh năm ngày tháng đi làm thuê làm mướn chỉ được đủ ăn mà thôi.

Thương: Thương là hạng người làm nghề buôn-bán. Song việc buôn-bán của ta ngày xưa kém-cỏi lắm. Người thiên-hạ đi buôn nước này, bán nước nọ, xuất-cảng, nhập cảng, kinh-doanh những công-cuộc to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh-quẩn ở trong nước, buôn-bán những hàng-hóa lặt-vặt, thành ra bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất. Thỉnh-thoảng có một ít người có mươi lăm chiếc thuyền mành chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia, nhưng vốn độ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự-phú.

Công-nghệ như thế, buôn-bán như thế, bảo nước mình phú cường làm sao được? Rút cục lại, chỉ có nghề nông và nghề sĩ là trọng-yếu hơn cả.

Nông: Nông là hạng người chuyên nghề làm ruộng. Dân Việt-nam ta thường thì ai cũng có ít ra là vài ba sào ruộng để cày-cấy, nghĩa là nghề làm ruộng là nghề gốc của người mình. Nhưng trừ những nơi ruộng nhiều người ít và đất lại phì-nhiêu như đất ở Nam-Việt, còn thì đất xấu và lại vì khí-hậu không điều-hòa, nắng mưa thất thường, việc cày-cấy gặp nhiều nỗi khó-khăn. Dân ở nhà quê, phần nhiều ăn nhờ về ruộng-nương, hễ năm nào mưa hòa gió thuận, mùa màng tốt thì năm ấy dân được no-ấm, nhưng năm nào mưa lụt hay hạn hán, mùa-màng mất hết, thì dân đói khổ.

Sĩ: Sĩ là hạng người chuyên nghề đi học, hoặc để thi đỗ ra làm quan, hoặc để đi dạy học, làm thầy thuốc, thầy địa-lý, thầy bói, thầy tướng, thầy số v.v. là những nghề phong-lưu nhàn-hạ.

Sự học của nước ta ngày trước có bộ Lễ coi việc giáo-hóa cả toàn nước. Ở tỉnh có quan Đốc-học, ở phủ có quan Giáo-thụ, ở huyện và ở châu thì có quan Huấn-đạo, là những người có khoa-mục, triều-đình bổ ra coi việc giáo-dục ở các hạt, và mỗi người coi một trường công ở trong hạt. Những sĩ-tử học ở các trường tư-thục đã khá khá đều được đến học-tập ở các trường công của quan Đốc, quan Giáo hay quan Huấn, đợi đến khi có khoa thi Hương, thì ra ứng thí. Năm nào có khoa thi, thì các quan Huấn-đạo, Giáo-thụ và Đốc-học mở cuộc khảo học-trò để lựa-chọn những người có đủ sức mới cho ra ứng thí.

Lệ nhà vua cứ ba năm mở khoa thi Hương ở các địa-phương. Những người đỗ cao ở khoa thi Hương gọi là cử-nhân, những người đỗ thấp gọi là Tú-tài. Năm sau ở Kinh-đô mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những người đỗ Cử-nhân năm trước vào ứng thí, ai trúng cách thì được vào thi Đình ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến-sĩ, là những bậc đại khoa, người trong nước rất lấy làm quí-trọng.

Mỗi khi có khoa thi Hương, các quan ở kinh ra chấm thi có cái biển đề bốn chữ: Phụng chỉ cầu hiền 奉 旨 求 賢 nghĩa là: vâng chỉ vua ra tìm người giỏi. Vậy sự thi-cử ngày trước có cái ý-nghĩa khác sự thi-cử ngày nay.

Đó là nói cách tổ-chức việc giáo-hóa của triều-đình. Còn ở chỗ dân-gian, thì sự học-tập rất tự-do. Bất kỳ người nào có học-lực kha-khá cũng có thể mở trường tư-thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư-thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà những người hào-phú nuôi thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến học. Người Việt-nam ta vốn chuộng sự học, cho nên người đi học cũng nhiều.

Nguyên sự học ngày xưa có cái mục-đích chân-chính là học cho hiểu đạo-lý, biết phải trái, và luyện-tập tâm-tính cho thành người có tiết-tháo và có phẩm-cách cao-quí, để gặp thời thì ra giúp nước giúp dân, nếu không, thì làm người ngay-chính trong xã-hội. Sau dần dần vì sự sanh-hoạt ở đời, sự học thành ra cái học chuyên về mặt cử-nghiệp, nghĩa là học chỉ cốt lấy đỗ để ra làm quan. Người đi học đã đỗ-đạt rồi, tự tin mình là tài-giỏi, chỉ vụ lấy cái hoa-mỹ bề ngoài để lòe người, chứ không thiết gì đến sự thực-học. Tựu-trung cũng có người muốn thi đỗ để lấy chút danh phận rồi về ở nhà học thêm hay dạy học. Nhưng đại đa số chỉ mong đỗ để làm quan vì làm quan là có địa-vị tôn-quí, ngoài ra không có gì hơn nữa.

Chương-trình sự học cử-nghiệp có những gì? Bao nhiêu công-phu của người đi học chú-trọng vào sự học cho nhớ những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cùng những lời thể-chú của tiền-nho trong những sách ấy và học thêm mấy bộ sử nước Tàu. Còn sự luyện-tập hàng ngày, thì cốt tập cho thạo-thuộc các lề-lối ở chỗ khoa-trường là: kinh-nghĩa, tứ-lục, thi-phú, văn sách. Ấy là dùng hư-văn mà xét tài thực-dụng, đem sự hoa-mỹ làm mực-thước đo tài kinh-luân. Bởi vậy ai hay kinh-nghĩa đã nghĩ mình hơn người, ai tài thi-phú đã tưởng mình giỏi nghề trị nước. Việc đời thì tối-tăm mờ-mịt mà lại tự-phụ và kiêu-căng, cho thiên-hạ như rơm-rác, coi mình như thần-thánh.

Sự học của mình đã hư-hỏng như thế, những hủ-tục lại ăn sâu vào trí-não, thành ra một thứ cố-tật không sao chữa được. May nhờ cái tinh-thần học cũ, người đi học, kiến-thức tuy không có cái gì mấy, nhưng thường có khí-tiết, biết liêm-sỉ và nhờ có cái thanh-nghị của bọn sĩ-phu ràng-buộc, ngăn-ngừa sự hành-động bất chính. Song chỉ có thế mà thôi, vẫn không đủ để sinh-tồn trong cái thời-đại quyền-lợi cạnh tranh, quyền-mưu quỉ-quyệt, trí-thuật gian-trá. Cho nên trong khi người tiến thì ta thoái, người thịnh thì ta suy.

Đại-khái, cái trình-độ của bọn sĩ-phu ở nước ta lúc bấy giờ là thế, cho nên vận nước suy đến nơi mà hồn người vẫn mê-muội ở chỗ mơ-màng mộng-mị. Bọn sĩ-phu là người có học, làm tai làm mắt cho mọi người mà còn kém-cõi như thế, thì bảo dân-gian khôn-ngoan làm sao được ?

3. SỰ SINH-HOẠT CỦA NGƯỜI TRONG NƯỚC. Tình-thế trong nước như đã nói trên, công-nghệ không có, buôn-bán không ra gì, trừ việc cày-cấy làm ruộng ra thì người nghèo-đói không có nghề-nghiệp gì mà làm ăn cả, cho nên thủa ấy tuy một tiền được bốn bát gạo, mà vẫn có người chết đói, vì rằng giá gạo thì rẻ, nhưng kiếm được đồng tiền thật là khó. Người đi làm thuê khôn-khéo, thì mới được một ngày một tiền, không thì chỉ được 18 hay 30 đồng tiền mà thôi. Sự làm-ăn ở chỗ thôn-quê đã vất-vã mà lại thường bị nhiều sự hà-lạm, ai có đồng tiền ở trong nhà thì lo sợ đủ mọi đường: nào sợ kẻ gian-phi trộm-cắp, nào sợ giặc đêm giặc ngày cướp-phá, cho nên phải chôn phải giấu cho kín.

Nhà-cửa phần nhiều là nhà tranh nhà lá, ít khi có nhà ngói nhà gạch. Kiểu nhà làm cũng phải theo kiểu thường mà làm, chứ không được làm nhà lầu và nhà kiểu chữ công 工 hay kiểu chữ môn 門. Ai làm nhà cửa mà không theo đúng phép, thì cho là lộng hành, phải tội.

Cách ăn-mặc thì chỉ có đồ vải đồ nâu, người nghèo-khổ chỉ có manh áo cánh và thường thì đóng cái khố, có đi đâu mới mặc cái quần vải dài đến đầu gối. Người sung-túc mới có vài cái áo nâu đen và vài cái quần hoặc nhuộm nâu hoặc để trắng, chứ không được mặc đồ gấm đồ vóc và đi giày. Nhà vua cấm như thế, là cũng có ý muốn cho dân không quen thói xa-hoa hoang-phí, chỉ trừ những người làm quan làm tư mới có cái đặc ân được ăn-mặc hơn người. Cũng vì thế cho nên người trong nước ai cũng mong được đi làm quan cho hiển-đạt cái thân hình và cho rỡ-ràng mẹ cha, chứ không lo nghĩ làm việc gì khác nữa. Hễ ai đi học mà vì lẽ gì thi không đỗ, làm quan không được, thì bức chí quay ra làm giặc để tìm cách hiển-vinh, thành ra trong nước hay có giặc-giã.

Nước nghèo, dân khổ, lại phải lúc có nhiều tai-biến, người ngoài vào xâm-lược, triều-đình ngơ-ngác không biết xoay-xở ra thế nào, lòng người ly-tán, phân ra bè nọ đảng kia, giết-hại lẫn nhau. Ấy là cái tình-thế nước Việt-nam ta vào cuối đời Tự-đức là thế, cho nên sự nguy-vong mới xảy ra vậy.

  1. Ta thường hiểu mấy chữ quân-chủ chuyên-chế theo cái nghĩa của các nước Âu-tây ngày xưa, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học Nho-giáo có nhiều chỗ khác nhau.