Bước tới nội dung

Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần V/Chương VII

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG VII

NƯỚC PHÁP LẤY ĐẤT NAM-KỲ

  1. Nước Pháp đánh Đà-nẵng
  2. Quân Pháp hạ thành Gia-định
  3. Mất tỉnh Định-tường
  4. Mất tỉnh Biên-hòa và tỉnh Vĩnh-long
  5. Hòa-ước năm nhâm-tuất (1862)
  6. Sứ Việt-nam ta sang Tây
  7. Việc bảo-hộ Cao-miên
  8. Nước Pháp lấy ba tỉnh phía tây đất Nam-kỳ

1. QUÂN PHÁP ĐÁNH ĐÀ-NẴNG. Trong thời-đại khó-khăn như đời vua Dực-tông, mà vua quan cứ khư khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở nước cho người ta vào buôn-bán, không biết nhân dịp mà khai-hóa dân trí, lại vì sự sùng-tín mà đem giết-hại người trong nước, và đem làm tội những người đi giảng đạo. Bởi những sự lầm-lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới dùng binh-lực để báo-thù cho những người giáo-sĩ bị hại.

Nguyên từ năm tân-hợi (1851) là năm Tự-đức thứ 4 về sau, nghĩa là từ khi có tờ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc-kỳ có mấy người giáo-sĩ là ông Bonard, ông Charbonnier, ông Matheron và ông giám-mục I-pha-nho tên là Diaz bị giết. Còn những giáo-sĩ khác thì phải đào hầm đào hố mà ở, hoặc phải trốn-tránh ở trong rừng trong núi để giảng đạo. Những tin ấy về đến bên Tây, các báo-chí ngày ngày kể những thảm-trạng của các người giáo-sĩ đi truyền đạo ở nước ta, lòng người náo động cả lên.

Chính-phủ nước Pháp bèn sai ông Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc chiến-thuyền « Catinat » vào cửa Đà-nẵng rồi cho người đem thư lên trách Triều-đình Việt-nam về việc giết đạo. Sau thấy quan ta lôi-thôi không trả lời, quân nước Pháp bèn bắn phá các đồn-lũy ở Đà-nẵng, rồi bỏ đi. Bấy giờ là tháng 8 năm bính-thìn (1856) là năm Tự-đức thứ 9.

Được 4 tháng sau thì sứ-thần nước Pháp là ông Montigny ở nước Tiêm-la sang, để điều-đình mọi việc. Chiếc tàu của ông Montigny đi vào đóng ở cửa Đà-nẵng, rồi cho người đưa thư lên nói xin cho người nước Pháp được tự-do vào thông thương, đặt lĩnh-sự ở Huế, mở cửa hàng buôn-bán ở Đà-nẵng, và cho giáo-sĩ được tự-do đi giảng đạo. Trong bấy nhiêu điều, triều-đình nước ta không chịu điều nào cả.

Bấy giờ bên nước Pháp đã lập lại đế-hiệu, cháu ông Nã-phá-luân đệ-nhất là Nã-phá-luân đệ-tam lên làm vua. Triều-chính lúc bấy giờ thì thuận đạo, lại có bà Hoàng-hậu Eugénie cũng sùng-tín. Vả chăng khi chiếc tàu « Catinat » vào cửa Đà-nẵng, có ông giám-mục Pellerin trốn được xuống tàu rồi về bệ kiến Pháp-hoàng, kể rõ tình-cảnh các người giảng đạo ở Việt-nam.

Ông P. Cultru chép ở trong sách Nam-kỳ sử-ký (Histore de la Cochinchine) rằng: lúc bấy giờ có nhiều người quyền-thế như ông chủ-giáo thành Rouen là Mgr de Bonnechose và có lẽ cả bà Hoàng-hậu cũng có nói giúp cho ông giám-mục Pellerin. Bởi vậy Pháp-hoàng mới quyết ý sai quan đem binh-thuyền sang đánh nước ta. Lại nhân vì những giáo-sĩ nước I-pha-nho cũng bị giết, cho nên chính-phủ hai nước mới cùng nhau trù-tính việc sang đánh nước Việt-nam. Ấy cũng tại vua quan mình làm điều trái đạo, giết-hại những người theo đạo Gia-tô cho nên mới có tai-biến như vậy.

Tháng 7 năm mậu-ngọ (1858) là năm Tự-đức thứ 11, hải-quân Trung-tướng nước Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu I-pha-nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3.000 quân của hai nước vào cửa Đà-nẵng, bắn phá các đồn lũy, rồi lên hạ thành An-hải 安 海 và thành Tôn-hải 尊 海.

Triều-đình được tin ấy liền sai ông Đào Trí 陶 致 ra cùng với quan tổng-đốc Nam-nghĩa là Trần Hoằng 陳 弘 tiễu-ngự. Ông Đào Trí ra đến nơi thì hai cái hải-thành đã mất rồi. Triều-đình lại sai quan hữu-quân Lê đình Lý 黎 廷 理 làm tổng-thống đem 2.000 cấm binh vào án ngự.

Ông Lê đình Lý vào đánh với quân Pháp một trận ở xã Cẩm-lệ 錦 荔 bị đạn, về được mấy hôm thì mất.

Vua Dực-tông lại sai quan Kinh-lược-sứ là ông Nguyễn tri Phương 阮 知 方 vào làm tổng-thống, ông Chu phúc Minh 朱 福 明 làm đề-đốc cùng với ông Đào Trí chống giữ với quân Pháp và quân I-pha-nho.

Ông Nguyễn tri Phương lập đồn Liên-trì 蓮 池 屯 và đắp lũy dài từ Hải-châu cho đến Phúc-ninh, rồi chia quân ra phòng giữ. Cứ như sách Nam-kỳ sử của ông Cultru thì ý quan trung-tướng Rigault de Genouilly định lấy Đà-nẵng xong rồi, lên đánh Huế, nhưng mà đến lúc bấy giờ thấy quan quân phòng giữ cũng rát, và lại có người đem tin cho trung-tướng biết rằng có hơn 10.000 quân ở Huế sắp kéo xuống. Trung-tướng không biết rõ tình-thế ra làm sao, mà đường-sá lại không thuộc, cho nên cũng không dám tiến quân lên.

Nhân vì khi trước các giáo-sĩ đều nói rằng hễ quân Pháp sang đánh, thì dân bên đạo tức khắc nổi lên đánh giúp, đến nay không thấy tin-tức gì, mà quân-lính của trung-tướng thì tiến lên không được. Ở Đà-nẵng thì chỗ ăn chỗ ở không có, lại phải bệnh dịch-tả chết hại mất nhiều người, bởi vậy trung-tướng lấy làm phiền lắm. Bấy giờ có ông giám-mục Pellerin cũng đi theo sang ở dưới tàu Ménésis, trung-tướng cứ trách ông giám-mục đánh lừa mình, giám-mục cũng tức giận bỏ về ở nhà tu dạy đạo tại thành Pénang ở bên Mã-lai.

Được mấy tháng, trung-tướng liệu thế đánh Huế chưa được, bèn định kế vào đánh Gia-định là một nơi dễ lấy, và lại là một nơi trù-phú của nước Nam ta.

2. QUÂN PHÁP VÀO ĐÁNH GIA-ĐỊNH. Trước đã có người bàn với trung-tướng Rigault de Genouilly ra đánh Bắc-kỳ, nói rằng ở Bắc-kỳ có hơn 40 vạn người đi đạo, và lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành công. Trung-tướng cho đi do-thám biết rằng đất Nam-kỳ dễ lấy hơn, và lại là đất giàu-có, nhiều thóc-gạo. Đến tháng giêng năm kỷ-mùi (1859) là năm Tự-đức thứ 12, Trung-tướng giao quyền lại cho đại-tá Toyon ở lại giữ các đồn tại Đà-nẵng, rồi còn bao nhiêu binh-thuyền đem vào Nam-kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần-giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông Đồng-nai, rồi tiến lên đánh thành Gia-định.

Ở Gia-định, bấy giờ tuy có nhiều binh-khí, nhưng quân-lính không luyện-tập, việc võ-bị bỏ trễ-nải, cho nên khi quân Pháp ở cửa Cần-giờ tiến lên, quan hộ-đốc là Vũ duy Ninh 武 維 寧 vội-vàng tư đi các tỉnh lấy binh về cứu-viện; nhưng chỉ trong hai ngày thì thành vỡ. Vũ duy Ninh tự tận. Quân nước Pháp và nước I-pha-nho vào thành, lấy được 200 khẩu súng đại-bác, 8 vạn rưỡi kilos thuốc súng và độ chừng 18 vạn phật-lăng (francs) cả tiền lẫn bạc, còn các binh-khí và thóc-gạo thì không biết bao nhiêu mà kể.

Trung-tướng Rigault de Genouilly lấy được thành Gia-định rồi, đốt cả thóc-gạo và san phẳng thành-trì làm bình-địa, chỉ để một cái đồn ở phía nam, sai thủy-quân trung-tá Jau-réguiberry đem một đạo quân ở lại chống giữ với quân của ông Tôn thất Hợp 尊 室 鉿 đóng ở đất Biên-hòa.

Trung-tướng lại đem quân trở ra Đà-nẵng, rồi tiến lên đánh một trận ở đồn Phúc-ninh 福 寧. Quân ông Nguyễn tri Phương thua phải lui về giữ đồn Nại-hiên 耐 軒 và đồn Liên-trì 蓮 池.

Trung-tướng muốn nhân dịp đó mà định việc giảng-hòa, nhưng mà Triều-đình cứ để lôi thôi mãi, người thì bàn hòa, kẻ thì bàn đánh, thành ra không xong việc gì cả[1]. Mà quân Pháp lúc bấy giờ ở Đà-nẵng khổ-sở lắm, nhiều người có bệnh-tật; trung-tướng Rigault de Genouilly cũng đau, phải xin về nghỉ.

Chính-phủ Pháp sai hải-quân thiếu-tướng Page (Ba-du) sang thay cho trung-tướng Rigault de Genouilly và nhân thể để chủ việc giảng-hòa cho xong. Đến tháng 10 năm kỷ-mùi (1859) thì thiếu-tướng sang đến nơi, và cho người đưa thư bàn việc hòa, chỉ cốt xin đừng cấm đạo, để cho các giáo-sĩ được tự-do đi giảng đạo, đặt lĩnh-sự coi việc buôn-bán ở các cửa bể và đặt sứ-thần ở Huế. Đại-để thì cũng như những điều của ông Montigny đã bàn năm trước. Nhưng chẳng may lúc bấy giờ ở trong Triều không ai hiểu chính-sách ngoại-giao mà chủ-trương việc ấy, hóa ra làm mất cái dịp hay cả cho hai nước.

Thiếu-tướng thấy cuộc hòa không xong bèn tiến binh lên đánh, trận ấy bên quân Pháp chết mất một viên lục quân trung-tá là Dupré Déroulède.

Khi quân Pháp và quân I-pha-nho sang đánh nước ta ở Đà-nẵng và ở Gia-định, thì quân nước Anh và quân nước Pháp đang đánh nước Tàu ở mạn Hoàng-hải 黄 海. Đến bấy giờ quân Pháp cần phải tiếp sang bên Tàu, chính-phủ nước Pháp mới truyền cho thiếu-tướng Page phải rút quân ở Đà-nẵng về, và chỉ để quân giữ lấy Gia-định, còn bao nhiêu binh-thuyền phải đem sang theo hải-quân trung-tướng Charner đi đánh Tàu. Bởi vậy đến tháng ba năm canh-thân (1860) quân Pháp đốt cả dinh-trại ở Trà-sơn rồi xuống tàu. Về đến Gia-định, thiếu-tướng Page để hải-quân đại-tá d'Ariès ở lại giữ Gia-định, còn bao nhiêu binh-thuyền đem lên phía bắc hội với binh-thuyền của nước Anh để đánh nước Tàu.

Triều-đình ở Huế thấy quân Pháp bỏ Đà-nẵng đi, bèn sai Nguyễn tri Phương 阮 知 方, Phạm thế Hiển 范 世 顯 vào Nam-kỳ, để cùng với ông Tôn thất Hợp 尊 室 鉿 sung Gia-định quân thứ.

Đến tháng 7 năm canh-thân (1860) ông Nguyễn tri Phương khởi hành. Lúc gần đi, ông ấy có tâu-bày mấy lẽ về việc giữ nước và nói rằng việc đánh nhau với nước Pháp bây giờ khó gấp năm gấp bảy lúc trước, nhưng ông ấy xin cố hết sức để đền ơn nước, còn ở mặt Quảng-nam mà có việc gì, thì ông Phan thanh Giản 潘 清 簡 và ông Nguyễn bá Nghi 阮 伯 儀 có thể cáng-đáng được.

Quân Pháp và quân I-pha-nho ở Sài-gòn lúc bấy giờ chỉ có độ 1.000 người mà quân của Việt-nam ta thì có đến hơn một vạn người. Nhưng mà quân ta đã không luyện-tập, lại không có súng-ống như quân Tây. Mình chỉ có mấy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay là 300 thước tây là cùng; còn súng đại-bác thì toàn là súng nạp tiền mà bắn mười phát không đậu một. Lấy những quân-lính ấy, những khí-giới ấy mà đối-địch với quân đã lập theo lối mới, bắn bằng súng nạp hậu và bằng đạn trái phá, thì đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận-đồ của Việt-nam ta từ đầu cho đến cuối, chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ, chứ không bao giờ có thế công, mà người Tây thì lợi cả công lẫn thủ. Tuy vậy ông Nguyễn tri Phương cùng với quan tham-tán đại-thần Phạm thế Hiển vào xếp-đặt ở Gia-định một cách rất có qui-cũ, đắp dãy đồn Kỳ-hòa (người Pháp gọi là dãy đồn Chí-hòa) cũng hợp qui-thức, để chống nhau với quân của đại-tá d'Ariès. Hai bên đã từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả.

Đến tháng 9 năm canh-thân (1860), thì nhà Thanh bên Tàu ký tờ hòa-ước với nước Anh và nước Pháp, hai bên bãi sự chiến-tranh. Chính-phủ nước Pháp sai hải-quân trung-tướng Charner đem binh-thuyền về chủ-trương việc lấy Nam-kỳ.

Tháng giêng năm tân-dậu (1861), trung-tướng Charner đem cả thảy 70 chiếc tàu và 3.500 quân bộ về đến Gia-định[2]. Được 20 ngày thì trung-tướng truyền lệnh tiến quân lên đánh lấy đồn Kỳ-hòa. Hai bên đánh nhau rất dữ trong hai ngày. Quân Pháp chết hơn 300 người, nhưng mà súng Tây bắn hăng quá, quân ta địch không nổi, phải thua bỏ đồn chạy về Biên-hòa.

Trận ấy bên Tây thì có lục-quân thiếu-tướng Vassoigne, đại-tá I-pha-nho Palanca và mấy người nữa bị thương, mà bên ta thì ông Nguyễn tri Phương 阮 知 方 bị thương, em ngài là Nguyễn Duy 阮 惟 tử trận, quan tham-tán là Phạm thế Hiển 范 世 顯 về đến Biên-hòa được mấy hôm cũng mất, còn quân-sĩ thì chết hại rất nhiều.

3. MẤT TỈNH ĐỊNH-TƯỜNG. Phá được đồn Kỳ-hòa rồi, trung-tướng Charner truyền cho quân thủy-bộ tiến lên đuổi đánh, quan quân vỡ tan cả. Tàu thủy của Pháp lên lấy Thủ-dầu-một và Tây-ninh. Trung-tướng lại sai người đưa thư sang cho vua Cao-miên là Norodom (Nặc-ông-lân), đại-lược nói rằng: chủ-ý của Pháp định lấy đất Gia-định làm thuộc-địa, và nay mai sẽ đánh lấy Mỹ-tho (Định-tường) để cho tiện đường lưu-thông với nước Cao-miên.

Bấy giờ bại quân của Nguyễn tri Phương rút về đóng ở Biên-hòa, còn đang rối loạn, chưa dám làm gì, quân Pháp bèn quay về phía tây đánh tỉnh Định-tường. Trước trung-tướng đã cho tàu đi dò các ngọn sông xem đi đường nào tiện, đến cuối tháng 2 năm tân-dậu (1861), một mặt trung-tướng sai trung-tá Bourdais đem tàu đi đường sông, tiến lên đánh các đồn, một mặt thì sai thiếu-tướng Page đi đường bể, theo cửa sông Mê-kong vào, hai mặt cùng tiến lên đánh lấy thành Mỹ-tho. Quan hộ-đốc là Nguyễn công Nhàn 阮 公 間 phải bỏ thành chạy.

Từ khi hạ xong thành Mỹ-tho rồi, trung-tướng đặt đồn lũy ở các nơi hiểm-yếu, và có ý hoãn việc binh để sửa-sang việc cai-trị trong địa-hạt đã lấy được, cho nên cũng không đánh các tỉnh khác.

Triều-đình ở Huế được tin quan quân thất thủ đại đồn Kỳ-hòa, và thành Mỹ-tho cũng thất thủ rồi, sai quan thượng-thư Hộ-bộ là Nguyễn bá Nghi 阮 伯 儀 làm Khâm-sai đại-thần vào kinh-lý việc Nam-kỳ. Nguyễn bá Nghi biết thế không chống nổi với quân Pháp, dâng sớ về xin giảng hòa. Nhưng ở trong triều-lúc bấy giờ có bọn Trương đăng Quế 張 登 桂 không chịu, bắt phải tìm kế chống giữ.

Có nhà chép sử trách Nguyễn bá Nghi rằng tuy ông ấy muốn giảng hòa, nhưng không chịu nhường đất, cứ lấy lý mà cãi, chứ không biết rằng thời buổi cạnh-tranh này, hễ cái sức đã không đủ, thì không có cái lý gì là phải cả. Vả chăng quân nước Pháp đã sang đánh lấy mấy tỉnh ở Nam-kỳ, là cốt để làm thuộc-địa, lẽ nào tự-nhiên lại đem trả lại. Bởi vậy sự giảng hòa cứ lôi-thôi mãi không xong. Mà ở trong địa-hạt tỉnh Gia-định và tỉnh Định-tường lúc ấy lại có mấy người như tri-huyện Toại 遂, phó quản-cơ Trương Định 張 定, thiên-hộ Dương 楊 rủ những người nghĩa-dũng nổi lên đánh phá quân Pháp. Quân Pháp cứ đánh-dẹp mãi dân-tình cũng bị lắm điều cực-khổ.

Đến tháng 10 năm tân-dậu (1861), chính-phủ Pháp sai hải-quân thiếu-tướng Bonard sang thay cho trung-tướng Charner về nghỉ.

4. MẤT TỈNH BIÊN-HÒA VÀ TỈNH VĨNH-LONG. Thiếu-tướng Bonard thấy quan quân ta cứ chống giữ mãi, bèn quyết ý đánh lấy tỉnh Biên-hòa và tỉnh Vĩnh-long. Đến tháng 11 năm ấy, thì quân Pháp chia ra làm 3 đạo, cùng tiến lên đánh lấy thành Biên-hòa, rồi lại tiến lên mặt đông-nam đánh lấy đồn Bà-rịa. Qua tháng 3 năm sau là năm nhâm-tuất (1862), thiếu-tướng Bonard lại đem 11 chiếc tàu và hơn 1.000 quân đi đánh Vĩnh-long, Tỉnh-thần ở đấy chống giữ được 2 ngày thì thành phá. Tổng-đốc Trương văn Uyển 張 文 琬 phải đem quân lui về phía tây sông Mê-kong.

5. HÒA-ƯỚC NĂM NHÂM-TUẤT (1862). Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc-kỳ có tên Phụng 奉, tên Trường 長, đánh phá ở mặt Quảng-yên và Hải-dương ngặt lắm, lại có Nguyễn văn Thịnh 阮 文 成, tục gọi là cai-tổng Vàng, quấy-nhiễu ở Bắc-ninh, mà trong Nam-kỳ thì lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều-đình lấy làm lo sợ lắm, bèn sai Phan thanh Giản 潘 清 簡 và Lâm duy Tiếp 林 維 浹 vào Gia-định giảng-hòa.

Đến tháng 4 thì sứ thần nước ta theo chiếc tàu Forbin[3] vào Sài-gòn. Đến hôm 9 tháng 5 thì thiếu-tướng Bonard và sứ-thần nước Nam ta là ông Phan thanh Giản và ông Lâm duy Tiếp ký tờ hòa-ước.

Tờ hòa-ước ấy có 12 khoản, nhưng cốt có những khoản sau này là quan-trọng hơn cả:

1. Nước Nam phải để cho giáo-sĩ nước Pháp và nước I-pha-nho được tự-do vào giảng đạo, và để dân-gian được tự-do theo đạo.

2. Nước Nam phải nhường đứt cho nước Pháp tỉnh Biên-hòa, tỉnh Gia-định và tỉnh Định-tường, và phải để cho chiến thuyền của Pháp được ra vào tự-do ở sông Mékong.

3. Nước Nam không được đem binh-khí, thuốc đạn đi qua những tỉnh đã nhường cho nước Pháp.

4. Hễ nước Nam có giao-thiệp với nước nào khác thì phải cho chính-phủ Pháp biết, và khi nào muốn nhường đất cho nước nào, thì phải tùy ý nước Pháp có thuận cho mới được.

5. Người nước Pháp và nước I-pha-nho được ra vào buôn-bán tự-do ở cửa Đà-nẵng, cửa Ba-lạt và cửa bể ở Quảng-yên.

6. Nước Nam phải trả tiền binh-phí 4.000.000 nguyên, chia làm mười năm, mỗi năm 40 vạn nguyên.

7. Nước Pháp trả tỉnh Vĩnh-long lại cho nước Nam, nhưng quân Pháp cứ đóng ở tỉnh-lỵ cho đến khi dẹp yên giặc-giã ở tỉnh Gia-định và tỉnh Định-tường thì mới rút về.

Sự giảng-hòa xong rồi thì triều-đình sai ông Phan Thanh Giản làm tổng-đốc Vĩnh-long, ông Lâm duy Tiếp làm tuần-phủ Khánh-thuận, để giao-thiệp với quan nước Pháp ở Gia-định.

Bấy giờ nước I-pha-nho cũng nhường quyền lấy đất làm thuộc-địa cho nước Pháp, chỉ nhận tiền binh-phí và quyền được cho giáo-sĩ đi giảng đạo thôi.

Tháng 2 năm quí-hợi (1863) là năm Tự-đức thứ 16, thiếu-tướng Bonard và đại-tá nước I-pha-nho là Palanca vào Huế triều-yết vua Dực-tông để công-nhận sự giảng-hòa của ba nước. Đoạn rồi thiếu-tướng Bonard về Pháp nghỉ. Hải-quân thiếu-tướng De la Grandière sang thay.

6. SỨ VIỆT-NAM SANG TÂY. Vua Dực-tông tuy thế bất-đắc-dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam-kỳ cho nước Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố hết sức để chuộc lại, vì là đất Gia-định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại là đất quê ngoại của ngài, nên chi hòa-ước đã ký rồi, mà ngài vẫn sai quan thương-nghị với quan nước Pháp về việc ấy. Mà chủ-ý người nước Pháp lúc bấy giờ thì không những là chỉ giữ lấy ba tỉnh mà thôi, lại còn định mở rộng thêm ra nữa. Vậy lẽ nào lại đem trả lại cho mình?

Vua Dực-tông thấy việc bên này bàn không xong, bèn sai quan hiệp biện đại-học-sĩ Phan thanh Giản 潘 清 簡, quan tả tham-tri lại-bộ Phạm phú Thứ và quan án-sát-sứ tỉnh Quảng-nam là Ngụy khắc Đản 魏 克 襢 đem phẩm vật sang sứ nước Pháp và nước I-pha-nho. Còn việc giao thiệp ở trong Nam-kỳ thì giao lại cho quan tổng-đốc tỉnh Vĩnh-long là Trương văn Uyển 張 文 琬.

Tháng 6, các sứ thần xuống tàu « Echo » vào Gia-định, rồi sang tàu « Européen » cùng với quan nước Pháp và quan nước I-pha-nho sang Tây. Đến tháng 8 thì tàu « Européen » về tới nước Pháp, sứ-thần nước ta lên Paris, xin vào triều-yết Pháp-hoàng Nã-phá-luân đệ tam. Nhưng bấy giờ Pháp-hoàng sắp đi ngự mát, sứ-thần ta phải ở lại chờ đến hơn một tháng mới được yết-kiến. Ông Phan thanh Giản tâu bày mọi lẽ về việc xin chuộc ba tỉnh Nam-kỳ. Pháp-hoàng ban rằng việc đó để đình-nghị xem thế nào rồi sau sẽ trả lời cho Triều-đình Huế.

Mấy hôm sau, bọn ông Phan thanh Giản đi sang I-pha-nho, rồi đến cuối năm thì các sứ-thần xuống tàu « Japon » trở về.

7. VIỆC BẢO-HỘ CAO-MIÊN. Trong khi sứ nước ta sang Tây lo việc chuộc lại mấy tỉnh ở Nam-kỳ, thì ở bên này thiếu-tướng De La Grandière một mặt cứ đánh-dẹp mọi nơi, xếp-đặt cách cai-trị, định thuế-lệ và mở trường dạy chữ Pháp và chữ quốc-ngữ[4], một mặt sai quan đi kinh-doanh việc bảo-hộ nước Cao-miên (Chân-lạp).

Nguyên từ năm kỷ-mùi (1859), vua nước Cao-miên là An-dương (tức là Nặc ông Tôn) mất rồi, người con trưởng tên là Norodom (Ông-lân) lên nối ngôi. Đến năm tân-dậu (1861), thì người em Norodom là Si-Vattha nổi lên tranh ngôi của anh. Norodom phải chạy sang Tiêm-la. Sang năm nhâm-tuất (1862) vua Tiêm-la sai quân đem Norodom về nước, rồi đặt quan ở Ô-đông để bảo-hộ Cao-miên.

Lúc bấy giờ ở Cao-miên có ông giám-mục tên là Miche khuyên vua Norodom về với nước Pháp thì Tiêm-la không dám bắt-nạt. Bên này thiếu-tướng De la Grandière cũng sai đại-úy Doudart de Lagrée sang kinh-doanh việc bảo-hộ Cao-miên. Ông Doudart de Lagrée sang Cao-miên trong một năm trời thu-xếp mọi việc, đến năm giáp-tí (1864) thì nước Tiêm-la phải rút quân về, nhường quyền bảo-hộ cho nước Pháp.

8. NƯỚC PHÁP LẤY BA TỈNH PHÍA TÂY ĐẤT NAM-KỲ. Ở bên Pháp lúc bấy giờ chính-phủ cũng còn phân-vân, chưa quyết hẳn lấy hay là trả đất Nam-kỳ, mà Pháp-hoàng thì thấy đường-sá xa-xôi cũng ngại, bèn sai hải-quân trung-tá Aubaret (Ha-ba-lý) sang điều-đình với Triều-đình ở Huế về việc cho chuộc ba tỉnh Nam-kỳ.

Vua Dực-tông lại sai quan Lại-bộ thượng-thư là ông Phan thanh Giản ra sung chức toàn-quyền cùng với Trần tiễn Thành 陳 踐 誠 và Phan huy Vịnh 潘 輝 泳 để thương-nghị với sứ-thần nước Pháp.

Ông Aubaret đưa bản-thảo tờ hòa-ước, đại-lược nói rằng: Nước Pháp trả lại ba tỉnh Gia-định, Biên-hòa và Định-tường cho nước Nam, chỉ giữ Sàigòn, Mỹ-tho và Thủ-dầu-một để đóng quân. Nhưng nước Nam phải để nước Pháp được quyền bảo-hộ cả 6 tỉnh Nam-kỳ. Nước Nam lại phải chịu mỗi năm là 2.000.000 nguyên tiền thuế.

Sứ hai nước cứ bàn đi bàn lại mãi không xong, mà ở bên Pháp thì có nhiều người không muốn trả lại đất Nam-kỳ. Cuối năm giáp-tí (1864) quan thượng-thư Hải-quân-bộ là hầu-tước De Chasseloup Laubat dâng sớ tâu với Pháp-hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh. Pháp-hoàng nghe lời ấy bèn xuống chỉ truyền cứ chiếu tờ hòa-ước năm nhâm-tuất (1862) mà thi-hành.

Năm ất-sửu (1865), quan thượng-thư De Chasseloup Laubat muốn biết rõ tình-thế bên Việt-nam này, bèn gọi thiếu-tướng De la Grandière về hội-nghị và sai hải-quân thiếu-tướng Roze sang thay. Thiếu-tướng De la Grandière về Pháp cả đi lẫn về mất 7 tháng, lại trở sang kinh-lý việc Nam-kỳ.

Lúc bấy giờ việc cai-trị ở ba tỉnh của Pháp đã thành nếp rồi, thiếu tướng De la Grandière ở Pháp sang đã quyết ý lấy nốt ba tỉnh phía tây. Lại nhân từ khi trước nước Pháp sang lấy Nam-kỳ, người bản-xứ thỉnh thoảng vẫn nổi lên đánh phá, quân Pháp dẹp mãi không yên. Ở Cao-miên lại có tên sư Pu kầm Bô xưng là cháu Nặc ông Chân cũng nổi lên đánh vua Norodom. Súy-phủ ở Sài-gòn đổ cho quan Việt-nam ta xui giục và giúp-đỡ những người làm loạn, bèn sửa soạn việc lấy tỉnh Vĩnh-long, tỉnh An-giang và tỉnh Hà-tiên.

Ở Huế tuy Triều-đình còn cứ mong chuộc lại đất ba tỉnh, nhưng vẫn biết ý súy-phủ ở Sài-gòn rồi tất lấy cả ba tỉnh phía tây, cho nên năm bính-dần (1866), lại sai ông Phan thanh Giản vào làm kinh-lược-sứ để tìm kế chống giữ.

Ở bên Pháp, thì từ năm đinh-mùi (1867), hải-quân trung-tướng Rigault de Genouilly lên làm thượng-thư Hải-quân-bộ[5] ra sức giúp thiếu-tướng De la Grandière cho xong việc. Bởi vậy súy-phủ ở Sài-gòn chỉ đợi dịp để khởi sự.

Tháng 6 năm đinh-mão (1867) là năm Tự-đức thứ 20, thiếu-tướng De la Grandière hội hơn 1.000 quân ở Mỹ-tho, rồi định ngày kéo sang lấy Vĩnh-long, An-giang và Hà-tiên. Ông Phan thanh Giản biết thế không chống nổi, bảo các quan đành chịu nộp thành-trì cho khỏi sự tai-hại, rồi ông uống thuốc độc mà tự-tận, dặn lại con-cái phải cày ruộng mà ăn, chứ không được nhận quan-chức gì ở Nam-kỳ.

Bấy giờ ông đã già, đã ngoài 74 tuổi, làm quan thật là thanh-liêm, nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến, biết thế mình không làm gì được, đem tấm lòng son-sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn-phận người làm tôi.

Từ đó đất Nam-kỳ toàn cảnh thành ra đất thuộc-địa của Pháp, thuế-má, luật-lệ, điều gì cũng do súy-phủ ở Sài-gòn quyết-định cả.

  1. Chỗ này sách tây có quyển chép rằng khi hai bên đang bàn việc hòa, thì vua Tự-đức sai ông Nguyễn tri Phương đánh quân Pháp ở Gia-định. Vả xem sử ta lúc bấy giờ thì ông Nguyễn tri Phương đang còn ở Quảng-nam mãi đến tháng 5 năm canh-thân (1860), ông ấy mới vào Nam-kỳ. Vậy việc đánh ở Gia-định là ông Tôn thất Hợp, chứ không phải là ông Nguyễn tri Phương.
  2. Sử ta chép rằng quân Pháp lúc bấy giờ có hơn 1 vạn người, mà các sách chép việc lấy Nam-kỳ thì chỉ nói có 3.500 người thôi và trong số ấy lại có mấy đội lính mộ An-nam nữa. Thiết tưởng số 3.500 có lẽ thật hơn.
  3. Nguyên trước thiếu-tướng Bonard có sai trung-tá Simon đem chiếc tàu Forbin vào cửa Thuận-an để đợi xem triều-đình ở Huế có xin hòa không. Nay chiếc tàu ấy đem thuyền của sứ-thần Việt-nam ta về Gia-định.
  4. Nguyên người nuớc ta tự xưa tuy có tiếng nói riêng mà không có chữ viết. Học-hành, văn-chương, án-từ, việc gì cũng làm bằng Hán-tự cả. Từ đời nhà Trần về sau đã có người dùng Hán-tự mà đặt ra chữ nôm để viết tiếng quốc-ngữ. Nhưng mà những nhà văn-học không hay dùng đến chữ nôm. Đến cuối đời nhà Lê có các giáo-sĩ Bồ-đào-nha sang giảng đạo ở nước ta, thấy Hán-tự khó học và không mấy người hiểu, mới mượn chữ La-tinh mà đặt ra chữ quốc-ngữ, để cho tiện sự giảng-dạy. Ngày nay ta cũng nhờ có chữ quốc-ngữ ấy mà làm thành ra nước ta có một lối chữ riêng rất tiện.
  5. Lúc bấy giờ Hải-quân-bộ kiêm cả Thuộc-địa-bộ.