Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần V/Chương XI

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHƯƠNG XI

QUÂN NƯỚC PHÁP LẤY BẮC-KỲ
Lần thứ hai

  1. Đại-tá Henri Rivière ra Hà-nội
  2. Hạ thành Hà-nội lần thứ hai
  3. Việc cầu-cứu nước Tàu
  4. Quân Pháp lấy Nam-định
  5. Đại-tá Henri Rivière chết

1. ĐẠI-TÁ HENRI RIVIÈRE RA HÀ-NỘI. Cuối năm tân-tị (1881)[1], nhân có hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông-hành đi lên Vân-nam, nhưng lên đến gần Lào-kay, bị quân Khách làm ngăn-trở, không đi được. Viên thống-đốc Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng binh-lực mà dẹp cho yên đất Bắc-kỳ. Sang tháng 2 năm nhâm-ngọ (1882) một mặt thống-đốc sai hải-quân đại-tá Henri Rivière sắp-sửa binh-thuyền ra Hà-nội; một mặt viết thư cho Huế, đại-lược nói rằng: đất Bắc-kỳ loạn-lạc, luật nhà vua không ai theo. Người Pháp có giấy thông-hành của quan An-nam cấp cho mà đi đến đâu cũng bị quân Khách ngăn-trở. Ở Huế thì quan Việt-nam thất lễ với quan Khâm-sứ Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh-vực quyền-lợi của người nước Pháp.

Được ít lâu, đại-tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm quân ra đến Hải-phòng, rồi đi tàu nhỏ lên Hà-nội, đóng ở Đồn-thủy.

2. HẠ THÀNH HÀ-NỘI LẦN THỨ HAI. Quan tổng-đốc Hà-nội bấy giờ là ông Hoàng Diệu 黄 耀 thấy binh-thuyền nước Pháp tự-nhiên ra Bắc-kỳ, lấy làm nghi-kỵ lắm, tuy có sai quan tuần-phủ Hoàng hữu Xứng 黄 有 秤 ra tiếp đãi tử-tế, nhưng trong bụng vẫn lo cho nên mới sai sửa dọn thành-trì để phòng-bị. Đại-tá Henri Rivière vào thành thấy vậy có ý không bằng lòng, bèn quyết ý đánh thành.

Sáng 5 giờ ngày mồng 8 tháng 3 năm nhâm-ngọ (1882), quan tổng-đốc tiếp được tờ tối-hậu thư của đại-tá hạn cho đến 8 giờ phải giải binh, và các quan võ Việt-nam phải ra đợi lệnh ở Đồn-thủy. Đúng 8 giờ thì quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ thì thành đổ. Ông Hoàng Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, còn các quan thì bỏ chạy cả.

Lúc tiếp được thư của đại-tá, thì ông Hoàng Diệu có sai Án-sát-sứ là Tôn thất Bá 尊 室 灞 ra thương thuyết. Ông Tôn thất Bá ở trên thành bỏ thang trèo xuống vừa xong, thì quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi, đại-tá sai tìm ông Tôn thất Bá về quyền-lĩnh mọi việc[2].

Vua Dực-tông được tin thành Hà-nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền cho quan Kinh-lược chánh phó sứ là ông Nguyễn Chính 阮 政 và Bùi ân Niên 裴 殷 年 đem binh lui về mặt Mỹ-đức để cùng với Hoàng kế Viêm 黄 繼 炎 tìm cách chống giữ. Nhưng quan Khâm-sứ Rheinart sang thương-thuyết rằng việc đánh thành Hà-nội không phải là chủ-ý của nước Pháp, và xin sai quan ra giữ lấy thành trì. Triều-đình bèn sai quan nguyên Hà-Ninh tổng-đốc là Trần đình Túc 陳 廷 肅 làm Khâm-sai đại-thần, quan Tĩnh-biên phó-sứ là Nguyễn hữu Độ 阮 有 度 làm phó Khâm-sai, ra Hà-nội để cùng với đại-tá Henri Rivière thu xếp mọi việc. Đại-tá trả thành Hà-nội lại cho quan ta, nhưng vẫn đóng quân ở trong Hành-cung. Hai bên thương-nghị mãi. Đại-tá đòi 4 khoản: 1 — nước Nam phải nhận nước Pháp Bảo-hộ; 2 — phải nhường thành-thị Hà-nội cho nước Pháp; 3 — đặt thương-chánh ở Bắc-kỳ; 4 — sửa lại việc thương-chánh ở các nơi, và giao quyền cho người Pháp cai-quản.

Bọn ông Trần đình Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều-đình hội-nghị, các quan có nhiều người nói rằng: Nước ta trong còn có Lưu vĩnh Phúc 劉 永 福, ngoài còn có nước Tàu, lẽ nào lại bó tay mà chịu. Bèn trả lời không chịu.

Đến tháng 10 thì ông Trần đình Túc về Huế, ông Nguyễn hữu Độ ở lại làm Hà-Ninh tổng-đốc.

3. VIỆC CẦU CỨU NƯỚC TÀU. Triều-đình ta bấy giờ nghi nước Pháp cố ý chiếm-đoạt, và lại tưởng rằng nước Tàu có thể bênh-vực được mình, cho nên mới sai ông Phạm thận Duật 范 慎 遹 sang Thiên-tân cầu-cứu. Chẳng qua là người mình hay có cái tính ỷ-lại, cho nên mới đi kêu-cầu người ta, chớ không biết rằng người Tàu giữ nước Tàu không xong còn đi cứu ai được. Tuy vậy, không những là Tàu không cứu được mình mà lại còn muốn nhân dịp để mượn tiếng sang lấy nước mình. Xem như khi thành Hà-nội thất-thủ, quan tổng-đốc Lưỡng Quảng là Trương thụ Thanh 張 樹 清 làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói rằng: « Nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế-lực nước Nam thật là suy-hèn, không có thể tự-chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ các tỉnh ở thượng-du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía Bắc sông Hồng-hà ». Bởi vậy Triều-đình nhà Thanh mới sai Tạ kính Bưu 謝 敬 彪, Đường cảnh Tùng 唐 景 松 đem quân sang đóng ở Bắc-ninh và ở Sơn-tây, sau lại sai quan bố-chính Quảng-tây là Từ diên Húc 徐 延 旭 đem quân sang tiếp-ứng.

4. QUÂN PHÁP LẤY NAM-ĐỊNH. Chính-phủ Pháp trước cũng muốn thu-xếp dần dần cho xong việc bảo-hộ ở nước Nam, và cho khỏi sự chiến-tranh, nhưng sau thấy Triều-đình ở Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu sang đóng ở các tỉnh, bèn một mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống-đốc Nam-kỳ, để thay cho ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân ra cho đại-tá Henri Rivière và triệu quan khâm-sứ Rheinart ở Huế về.

Nguyên trước Đại-tá Henri Rivière ở Hà-nội chỉ có độ 400 lính, sau lại tiếp được 750 người nữa, đại-tá bèn để đại-úy Berthe de Villers với 400 quân ở lại giữ Hà-nội, còn bao nhiêu đem đi đánh Nam-định. Ngày 28 tháng 2 năm quí-mùi (1883), thì quân Pháp khởi đánh thành. Đánh từ sáng đến trưa thì quân Pháp vào thành; quan tổng-đốc Vũ trọng Bình 武 仲 平 bỏ chạy, quan đề-đốc Lê văn Điếm tử trận, quan án-sát-sứ Hồ bá Ôn bị thương.

5. ĐẠI-TÁ HENRI RIVIÈRE CHẾT. Quan ta thấy quân Pháp tiến binh, và lại cậy có quân Tàu sang cứu, bèn quyết ý đổi thế hòa ra thế công. Một mặt quan tổng-đốc Bắc-ninh là Trương quan Đản 張 光 犢 cùng với quan phó kinh-lược Bùi ân Niên 裴 殷 年 đem binh về đóng ở Giốc-gạch, thuộc huyện Gia-lâm chực sang đánh Hà-nội. Đại-úy Berthe de Villers đem quân ở Hà-nội sang đánh đuổi, quan quân phải lui về phía Bắc-ninh. Một mặt quan tiết-chế Hoàng kế Viêm 黄 繼 炎 sai Lưu vĩnh Phúc 劉 永 福 làm tiên-phong đem quân về đóng ở phủ Hoài-đức, để đánh quân Pháp.

Đại-tá Henri Rivière lấy xong Nam-định rồi về Hà-nội thấy quân ta và quân cờ đen sắp đến đánh, bèn truyền lệnh tiến binh lên đánh mặt phủ Hoài-đức. Sáng hôm 13 tháng 4 thì đại-tá đem 500 quân ra đánh ở mạn Cầu-giấy, bị quân cờ đen phục ở chung quanh đổ ra đánh, quân Pháp chết và bị thương non 100 người. Đại-tá Henri Rivière tử trận, đại-úy Berthe de Villers bị thương nặng.

Ở Sài-gòn được tin đại-tá Henri Rivière chết, viên thống-đốc Thomson liền điện về cho chính-phủ Pháp biết. Lúc bấy giờ ở Paris, hạ-nghị-viện còn đang do dự về việc đánh lấy Bắc-kỳ. Khi tiếp được điện-báo ở Sài-gòn về, nghị-viện liền thuận cho chính-phủ trích ra 5 triệu rưỡi phật-lăng để chi-tiêu về việc binh-phí, và lại thuận cho một viên quan văn làm toàn-quyền, sang kinh-lý mọi việc ở Bắc-kỳ.

Chính-phủ Pháp liền điện sang truyền cho lục-quân thiếu-tướng Bouet ở Nam-kỳ ra thống-đốc quân-vụ ở Bắc-kỳ, sai Hải-quân thiếu-tướng Courbet đem một đội chiến-thuyền sang tiếp-ứng và lại cử ông Harmand là sứ-thần Pháp ở Tiêm-la ra làm toàn-quyền.

Ngày mồng 3 tháng 5, thì thiếu-tướng Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập ra đến Hải-phòng. Lập tức thiếu-tướng sửa-sang sự chống giữ ở Hà-nội và ở Nam-định, và lại cho Georges Vlavianos (ông Kiều) là người theo Đồ-phổ-Nghĩa ngày trước, được phép mộ lính cờ vàng đi làm tiền quân.

Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà-nội,ở Hải-phòng và ở Nam-định, nhưng chỗ nào cũng thất bại.

Quân ta bấy giờ không có thống-nhất, ai đứng lên mộ được năm ba trăm người, cho mang gươm mang giáo đi đánh, hễ phải độ vài ba phát đạn trái phá thì xô-đẩy nhau mà chạy; còn quân của nhà vua thì không có luyện-tập, súng đại-bác toàn là súng cổ, súng tay thì ít và xấu. Như thế thì chống làm sao được với quân Pháp là quân đã quen đánh trận và lại có đủ súng-ống tinh-nhuệ?

Bấy giờ cuộc hòa đổi ra cuộc chiến, súy-phủ ở Sài-gòn đuổi quan lĩnh-sự Việt-nam là ông Nguyễn thành Ý 阮 誠 意 về Huế. Trong khi việc nước đang rối cả lên như thế, thì vua Dực-tông mất.

Ngài mất ngày 16 tháng 6 năm quí-mùi (1883), trị-vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu-hiệu là Dực-tông Anh-hoàng-đế 翼 宗 英 皇 帝.

  1. Độc-giả hiểu cho rằng những ngày tháng chép trong sách này là theo ngày tháng Việt-nam chứ không phải là theo ngày tháng Tây.
  2. Về sau có bài Chính-khí ca nói về việc quan ta giữ thành Hà-nội lúc bấy giờ, và ai hay ai dở cũng chép rõ-ràng. Bài ca ấy không biết ai làm.